Kẻ phụng sự thầm lặng - Chương 03
Jerusalem
Ngày đăng 09-01-2016
Tổng cộng 64 hồi
Đánh giá 9.7/10 với 63199 lượt xem
Họ lái xe qua đường Narkiss, một con đường yên tĩnh và nhiều cây xanh ở trung tâm thành phố Jerusalem, và đỗ bên ngoài toà nhà màu đá vôi ở số 16. Ngôi nhà cao 3 tầng và được che khuất bằng một cây khuynh diệp cao vút mọc trong vườn trước nhà. Gabriel dẫn Navot đi qua sảnh nhỏ và bước lên cầu thang. Dù vắng nhà đã lâu nhưng anh chẳng màng kiểm tra họp thư. Anh có bao giờ nhận được thư đâu, vì cái tên trên hộp thư là giả. Trong bộ máy nhà nước Israel, cái tên Gabriel Allon không có thực. Anh chỉ sống ở Văn phòng và thậm chí cũng chỉ là người ngụ cư bán thời gian ở đó.
Căn hộ của anh ở tầng trên cùng. Như thường lệ, anh ngập ngừng trước khi mở cửa. Căn phòng chào đón anh không giống như hiện trạng lúc anh bước ra khỏi đó sáu tháng trước. Lúc đó căn phòng này là một studio nghệ thuật nhỏ nhưng đầy đủ chức năng, còn giờ nó được trang trí tỉ mỉ bằng một màu be huyền ảo và màu trắng nhẹ nhàng mà Chiara Zolli, vị hôn thê người gốc Venice của anh rất yêu thích. Cô ấy rất bận bịu lúc anh đi xa. Không hiểu sao cô quên không nói chuyện trang trí lại căn phòng trong lần cô đi Italy vừa rồi.
“Trời, đồ đạc của tớ đâu?”.
“Bên quản lý nhà đang lưu giữ đến khi cậu tìm được một studio thích hợp”. Navot mỉm cười trước vẻ khó chịu của Gabriel. “Cậu đâu có muốn vợ mình sống ở một căn hộ không có bàn ghế nội thất, phải không nào?”.
“Cô ấy chưa phải là vợ tớ mà”. Anh đặt túi lên chiếc ghế sô-pha mới, trông khá đắt tiền. “Cô ấy đâu rồi”.
“Thế cô ấy không nói cho cậu biết tụi mình đang cử cô ấy đi đâu sao?”.
“Cô ấy nắm rõ quy định ngăn chia phòng và cần phải hiểu điều đó nghiêm túc chứ”.
“Tớ cũng vậy”.
“Cô ấy đâu, Uzi?”
Navot định đáp lại, nhưng một giọng nói từ nhà bếp vang lên đã trả lời cho anh. Giọng nói rất quen thuộc với Gabriel, cả dáng người già nua cũng vậy, người đó mặc quần kaki và cái áo khoác bằng da có vết rách ở ngực trái. Đầu người đó nhìn giống như viên đạn và bị hói, trừ cái viền tóc trắng phau như thầy tu. Mặt của ông hốc hác hơn những gì Gabriel đã nhớ, đôi kính với cặp gọng xấu xí hiện to lên đôi mắt xanh không còn trong nữa. Ông đang tựa người vào cây gậy bằng gỗ ôliu rất đẹp. Bàn tay cầm gậy giống như mượn từ một người to gấp đôi ông.
Ari Shamrom nói lần thứ hai. “Vợ sắp cưới của anh đang ở Argentina”.
“Cô ấy làm việc gì ở đó vậy”
“Theo dõi một phần tử khủng bố nổi tiếng”.
Gabriel không phải hỏi kỹ về phần tử đó. Câu trả lời nằm ở địa điểm chiến dịch. Argentina, giống như những nước còn lại ở Nam Mỹ, chính là hang ổ của Hezbollah.
“Chúng tôi nghĩ việc Hezbollah tìm cách trả thù cho những thiệt hại mà chúng ta đã gây ra cho chúng ở Libăng chỉ là vấn đề thời gian. Một cuộc tấn công khủng bố không để lại dấu vết là khả năng lớn nhất. Vấn đề duy nhất chúng ta đang nghĩ đến chính là mục tiêu của cuộc tấn công. Chúng ta hay những thành phần ủng hộ chúng ta ở Mỹ”.
“Khi nào cô ấy xong nhiệm vụ?”.
Shamron nhún vai chẳng lấy gì làm chắc chắn. “Đây là một cuộc chiến không có hồi kết, Gabriel. Nó kéo dài mãi. Thế nhưng anh biết rõ điều đó hơn bất kỳ ai trong chúng ta, phải không nào?”, ông sờ mặt Gabriel. “Tìm một cốc cà phê đi. Ta cần nói chuyện”.
Gabriel thấy một hộp cà phê trong tủ bếp. Tem đã bóc và chỉ cần ngửi cũng biết nó không còn ngon. Anh ta đổ một ít vào trong máy pha rồi đun một ấm nước sôi, quay trở lại phòng khách. Navot đang chăm chú xem một cái đĩa gốm trên bàn trong cùng, Shamron đã ngồi vào ghế và đang châm điếu thuốc Thổ Nhĩ Kỳ có mùi khó chịu. Gabriel đã đi sáu tháng, nhưng khi anh đi vắng, hình như không có gì thay đổi đồ nội thất.
Shamron hỏi. “Không có cà phê à?”
Shamron liếc nhìn chiếc đồng hồ đeo tay to tướng bằng thép không gỉ của mình. Thời gian lúc nào cũng là kẻ thù của ông, nhưng giờ còn hơn thế. Gabriel nghĩ đó là vụ tấn công, cuối cùng Shamron buộc phải đối diện với khả năng sinh tử của mình.
Gabriel hỏi. “Solomon Rosner là báu vật của Văn phòng phải không?”.
“Thực sự là một người rất có giá trị”.
“Bao lâu rồi?”.
Shamron ngả đầu ra sau và nhả một làn khói trắng lên trần nhà trước khi trả lời.
“Trở lại thời gian giữa những năm 1990, suốt nhiệm kỳ thứ hai làm sếp của tôi, chúng ta bắt đầu nhận ra rằng Hà Lan sẽ trở thành một vấn đề đối với chúng ta trong tương lai. Thành phần dân số của nước này đang thay đổi rất nhanh chóng. Amsterdam đang trên đường trở thành một thành phố Hồi giáo. Thanh niên đang thất nghiệp và phẫn nộ, họ đang được các giáo sĩ bồi dưỡng bằng món ăn hận thù, đa số họ đều được du nhập từ ngoài nước và được bạn bè chúng ta ở Arập Xêút tài trợ. Đã có một số vụ tấn công nhằm vào cộng đồng địa phương. Hầu hết đó là những vụ tấn công lặt vặt như cửa sổ vỡ, chảy máu mũi, ném bom xăng lẻ tẻ.
Chúng ta muốn đảm bảo những vụ như vậy không trở nên nghiêm trọng hơn. Chúng ta còn muốn biết xem có kẻ thù nào của ta đang sử dụng Amsterdam như một căn cứ hoạt động cho những vụ tấn công lớn chống lại người Israel ở Châu Âu. Chúng ta cần tai mắt ở ngay nơi xảy ra chuyện nhưng chúng ta không có nguồn lực để thực hiện chiến dịch một mình”.
Gabriel mở chiếc cửa dẫn ra ban công nhỏ xíu nhà mình. Mùi hương khuynh diệp ở vườn trước nhà tràn vào căn hộ. “Do đó ông quay sang tìm Rosner phải không?”.
“Cũng không hẳn vậy. Chúng ta đã thử theo cách truyền thống trước, đó là quan hệ với AIVD, cơ quan an ninh của Hà Lan. Chúng ta đã thuyết phục họ hàng tháng trời, nhưng người Hà Lan vào thời điểm đó không thích dây dưa với chúng ta. Sau lần từ chối cuối cùng, tôi đã được phép xâm nhập AIVD bằng cửa sau. Trưởng trạm địa phương của chúng ta đã hơi vụng về trong việc tiếp cận với ông phó của AIVD phụ trách theo dõi cộng đồng Hồi giáo, và chuyện đó đã đổ vỡ trước mặt chúng ta. Anh còn nhớ vụ xì-căng-đan đó không Gabriel?”.
Anh vẫn nhớ. Vụ này đã được phanh phui trên khắp các báo Hà Lan và Israel. Đã có nhiều cuộc trao đổi nóng hổi giữa Bộ ngoại giao hai nước và những lời đe doạ trục xuất đầy giận dữ.
“Khi cơn bão qua đi, tôi quyết định thử lại lần nữa. Tuy nhiên, lần này tôi chọn một mục tiêu khác”.
“Rosner”, Gabriel nói thêm và Shamron gật đầu đồng ý.
“Ông ấy theo dõi những gì đang được truyền miệng ở các nhà thờ Hồi giáo khi không ai ở Amsterdam muốn nghe, và ông đọc những lời phỉ báng qua những trang viết trên internet khi mà những người khác không thèm để ý đến. Nhiều lần, ông ấy đã cung cấp thông tin cho cảnh sát kịp thời ngăn ngừa bạo động. Ông bất ngờ biến thành người Do Thái. Qua những thông tin đó thì, Rosner chính là người đáp ứng những mong ước của chúng ta”.
“Thế ai là người lo việc tuyển chụng?”
Shamron nói. “Chính tôi. Sau vụ xì-căng-đan ở AIVD, tôi không còn tin tưởng mà giao việc cho ai nữa”.
Gabriel nói. “Ngoài ra, việc tuyển dụng được người tốt luôn là điều khiến ông ham thích”.
Shamron trả lời bằng một nụ cười ẩn ý, cũng như nụ cười mà ông đã thể hiện vào buổi chiều nóng như thiêu đốt vào tháng 9 năm 1972, khi ông đến gặp Gabriel tại Viện hàn lâm nghệ thuật Bezalel tai Jerusalem. Lúc đó Gabriel đã là một hoạ sĩ trẻ đầy triển vọng, còn Shamron là một người ngông cuồng trong chiến dịch thủ tiêu các thành viên của tổ chức Tháng Chín Đen, những kẻ thực hiện Vụ thảm sát Munich. Chiến dịch này có mật danh là Cơn thịnh nộ của Chúa, nhưng trong thực tế, đó là Cơn thịnh nộ của Gabriel. Trong số 12 thành viên của tổ chức Tháng Chín Đen bị Văn phòng thủ tiêu, sáu tên bị Gabriel giết ở cự ly gần bằng khẩu Beretta nòng 22 ly.
“Tôi đã bay đi Amsterdam và mời Rosner ăn tối trong một nhà hàng yên tĩnh nhìn xuống tháp Amstel. Tôi đã kể những câu chuyện về thời xa xưa – thời Chiến tranh giành độc lập, thời bắt giữ Eichmann. Cậu cũng biết họ đấy Gabriel, những câu chuyện cậu và Uzi đã nghe được trước đó hàng ngàn lần. Vào cuối buổi tối đó, tôi đặt hợp đồng lên bàn. Ông ấy đã ký không do dự”.
Shamron bị ngắt lời bởi tiếng kêu của ấm trà. Gabriel đi vào bếp và pha cà phê. Khi quay lại, anh đặt máy pha kiểu Pháp lên bàn cà phê, cùng với ba tách trà và một lọ đường. Navot nhìn anh không hài lòng. “Tốt hơn cậu nên đặt một cái gì bên dưới để lót. Nếu để lại vết bẩn trên khăn trải bàn, Chiara sẽ giết cậu”.
“Tôi thử xem Chiara sẽ làm gì tôi mà Uzi”, Gabriel nìn Shamron.
Shamron có vẻ thận trọng. “Rosner là phát hiện quý giá của tôi. Dĩ nhiên là tôi sẽ phải cân nhắc kỹ khi chuyển giao báu vật ấy cho người khác. Tôi cho ông ấy ít tiền thuê trợ lý, và khi Rosner có việc phải báo cáo thì tôi là người đến gặp ông ta”.
“Ở Amsterdam ư?”.
Shamron nói. “Không bao giờ. Thường thì chúng tôi gặp nhau ở bên kia biên giới”.
“Antwerp”.
“Rồi lần thứ hai ông bị đuổi khỏi Văn phòng thì sao?”.
“Tôi bám vào một số việc linh tinh khiến bản thân bận rộn với sự lẩm cẩm của mình”.
“Rosner là một trong những việc linh tinh đó”.
“Tất nhiên một người nữa chính là cậu. Tôi đã không tin tưởng giao cậu cho ai khác”.
Ông cho một muỗng đường vào tách cà phê rồi khuấy nó, với tâm trạng buồn bã. “Khi tôi sang chỗ Thủ tướng làm Cố vấn an ninh cấp cao, tôi không được sử dụng Rosner nữa”. Ông liếc nhìn Navot. “Tôi giao cho Uzi. Nói cho cùng, anh ta là tình báo của chúng ta ở Châu Âu”.
“Và còn là người bảo vệ cho ông”, Gabriel nói thêm.
Navot bộc bạch. “Công việc đó chính xác cũng không nặng nhọc gì mấy. Ari đã làm hết rồi còn gì. Tớ chỉ phải xử lý những báo cáo của Rosner. Cách đây 18 tháng, ông ấy đã cho tớ một thỏi vàng nguyên chất. Theo nguồn tin của Rosner bên trong cộng đòng Hồi giáo, một nhân vật có quan hệ với Al-Qaeda đang hoạt động ở Tây Amsterdam đã nắm được một quả tên lửa và đang có kế hoạch bắn hạ một chiếc máy bay của hãng hàng không El Al khi chiếc máy bay mày hạ cánh tại sân bay Schiphol. Buổi tối đó, chúng tôi đã đáp chuyến bay đi Bỉ và thông báo cho phía Hà Lan. Họ đã bắt giữ bốn người đàn ông ngồi trong một chiếc xe đỗ ở cuối đường băng. Trong cốp chiếc xe có một quả tên lửa chống máy bay được buôn lậu vào Amsterdam từ Irắc”.
“Thế làm sao mà Rosner biết được âm mưu này?”.
Shamron nói. “Ông ấy có nguồn tin, những nguồn tin rất chuẩn xác. Nhiều lần tôi đã cố thuyết phục ông ấy giao nguồi tin cho chúng ta nhưng lúc nào ông cũng từ chối; ông ấy nói những người cung cấp tin chịu cho ông ấy vì họ nghĩ rằng ông không phải là dân chuyên nghiệp. Thật ra thì đúng ông không phải là dân chuyên nghiệp, nhưng không có ai ở Hà Lan biết được điều này”.
Gabriel hỏi “Ông chó chắc về chuyện đó không? Ông chắc là Rosner không chết vì có liên hệ với chúng ta chứ?”.
“Không may là không thiếu người ở Amsterdam muốn Solomon chết. Một số giáo sĩ thánh chiến có tiếng tăm của thành phố công khai kêu gọi một người tình nguyện tiến hành hạ sát ông ấy. Họ cuối cùng đã tìm được người ở Muhammad Hamza, một thợ sơn nhà từ Bắc Amsterdam làm cho một công trình xây dựng đối diện nhà Rosner. Cảnh sát Amsterdam đã tìm thấy băng video bên trong căn hộ hộ của Hamza sau khi hắn bị bắt. Cuốn băng được thực hiện vào buổi sáng xảy ra vụ ám sát Rosner. Trong cuộn băng, Hamza bình tĩnh nói rằng ngày hôm nay sẽ là ngày hắn giết một người Do Thái”.
“Thế ông muốn tôi đảm nhiệm công việc linh tinh gì ở Amsterdam?”.
Navot và Shamron nhìn nhau như đang cố gắng tìm một câu trả lời rõ ràng. Shamron để cho Navot trả lời. Dù gì thì anh cũng là sếp của Chiến dịch đặc biệt.
“Chúng tôi cần cậu đi Amsterdam xoá hồ sơ của ông ấy. Chúng tôi cần tên tuổi của toàn bộ những nguồn tin quý giá ấy, tất nhiên là phải bảo đảm không có manh mối gì ở đó cho thấy việc này có liên quan đến chúng ta”.
Shamron nói thêm. “Sẽ rất khó xử nếu như mối quan hệ của chúng ta với Rosner bị phơi bày ra ánh sáng. Điều đó sẽ còn gây khó khăn cho chúng ta khi tuyển mộ sayanim từ các cộng đồng Do Thái khắp nơi trên thế giới. Chúng ta chỉ là một cơ quan nhỏ. Chúng ta không thể hoạt động nếu không có họ”.
Sayanim chính là mạng lưới toàn cầu gồm những người Do Thái tình nguyện giúp đỡ. Họ là những ông chủ ngân hàng cung cấp tiền bạc cho nhân viên của Văn phòng trong trường hợp khẩn cấp; những bác sĩ bí mật chữa trị cho họ khi bị thương; những người chủ khách sạn cho họ trú ngụ dưới những cái tên giả và những nhân viên cho thuê xe cung cấp cho họ những chiếc xe không ai có thể lần ra được. Đa số sayanim đã được tuyển mộ và nuôi dưỡng bởi chính Shamron. Ông ấy đã hết lòng xem họ là những nhân viên bí mật của cộng đồng Do Thái.
Gabriel nói. “Điều đó cũng có khả năng làm cho tình hình bất ổn định ở Hà Lan thêm tệ. Solomon Rosner là một trong những người phê bình nổi tiếng nhất đối với thành phần chiến binh Hồi giáo ở Châu Âu. Nếu có tin ông ấy là điệp viên được ta tuyển mộ, cộng đồng Do Thái ở Hà Lan có thể gặp nguy hiểm”.
“Tôi không đồng ý với cách lập luận của cậu”, Shamron nói. “Tuy nhiên, quan điểm của cậu sẽ được lưu ý”.
“Làm thế nào tôi xâm nhập được vào văn phòng của Rosner?”.
Navot trả lời. “Cách đây khoảng một năm, khi những mối đe doạ đầy nguy hiểm đối với Rosner bắt đầu xuất hiện chúng tôi đều biết mình phải lên kế hoạch cho một tình huống khẩn cấp như thế. Rosner đã bảo trợ lý của mình, một phụ nữ trẻ tên là Sophie Vanderhaus, rằng trong trường hợp ông qua đời, cô ấy sẽ được một người tên là Rudolf Heller liên lạc và được hướng dẫn cách cô ta phải làm, theo từng câu từng chữ”.
Herr Rudolf Heller, một nhà tư bản kinh doanh mạo hiểm đến từ Zurich, là một trong nhiều tên giả của Shamron.
Shamron nói tiếp. “Đêm qua tôi đã liên lạc với Sophie. Tôi bảo cô ấy rằng một đồng nghiệp của tôi sẽ đến Amsterdam chiều mai và anh ta sẽ được phép xem xét tất cả hồ sơ của Rosner”.
“Chiều mai ư?”.
“Có một chuyến bay của hãng hàng không El Al rời phi trường Ben Guiron lúc 6 giờ 45 và đến Amsterdam lúc 2 giờ chiều. Sophie sẽ gặp anh ở trước tiệm cà phê Café de Doelen lúc 4 giờ”.
“Để xem hết toàn bộ hồ sơ của Rosner tôi phải mất mấy ngày đấy”.
Shamron nói. “Đúng thế”.
“Dường như ông vui vì công việc này không dồn lên vai mình”.
“Đó là lí do tại sao chúng tôi quyết định có một số biện pháp hỗ trợ. Người đó đã có mặt ở Châu Âu vì lí do cá nhân. Anh ấy sẽ có mặt ở đó khi anh đến”.
Gabriel đưa tách cà phê lên môi, anh nhìn Shamron qua miệng tách. “ Thế còn những lời hứa của chúng ta với cơ quan an ninh Châu Âu? Thoả thuận mà chúng ta ký bằng máu để đổi lại việc họ bỏ qua tất cả những lời buộc tội và kiện tụng chống lại tôi thì sao?”.
“Ý cậu nói thoả thuận cấm cậu hoạt động trên đất Châu Âu mà không xin phép cơ quan an ninh của nước đó chứ gì?”
“Vâng, đúng thế”.
Cả ba người cùng chia sẻ sự yên lặng đầy ẩn ý. Đưa ra những lời hứa mà họ vốn không có ý định giữ lời là việc họ thường xuyên phải làm dù không muốn. Họ đã lạm dụng hộ chiếu của những quốc gia khác, tuyển mộ nhân viên đặc nhiệm từ các cơ quan liên minh giữa an ninh và tình báo, và thường xuyên thực hiện những chiến dịch trên đất hải ngoại, những chiến dịch bị cấm đoán bởi những hiệp ước đã có từ lâu. Họ đã tự an ủi mình rằng họ làm thế vì không có chọn lựa nào khác; vì bị bao vây bởi những kẻ thù không từ một thủ đoạn gì để gây nên sự chết chóc; và bởi vì phần còn lại của thế giới bị bịt mắt bởi sự câm thù chủ nghĩa bài trừ Do Thái và người Do Thái, sẽ không cho phép họ đáp trả lại bằng toàn bộ sức mạnh quân sự hùng mạnh của mình. Họ đã lừa dối hết người này đến người khác và chỉ cảm thấy thanh thản khi có người khác đồng tình.
Shamron nói. “Cậu không đang đi sau bức màn sắt. Với vỏ bọc phù hợp và một vài công việc tạo nên sự nổi tiếng của cậu bây giờ, cậu sẽ không gặp vấn đề gì khi vào đất nước này. Những thủ tục nhập cảnh mới ở châu Âu đã làm cho sự đi lại của những nhân viên Văn phòng dễ thở hơn và không may là cũng dễ cho những tên khủng bố nữa. Kẻ khủng bố có thể sống ung dung trong một ngôi nhà bên bờ biển Bắc mà người Hà Lan sẽ chẳng bao giờ biết được”.
Navot vươn người đến chiếc cặp của mình. Chiếc phong bì anh lấy ra là loại cũ, có sợi dây thay vì móc bằng nhôm. Văn phòng là một trong những cơ quan tiên tiến trên thế giới về công nghệ nhưng vẫn sử dụng phong bì từ thời Israel chưa có truyền hình.
Shamron nói. “Đây là công việc thời vụ. Cuối tuần này cậu sẽ về nhà. Chưa biết chừng vợ cậu cũng sẽ về đấy”.
“Cô ấy chưa phải là vợ tôi mà”.
Gabriel nhận phong bì từ tay Navot. Anh nghĩ, công việc thời vụ, nghe hay đấy, nhưng thật ra thì nó chẳng bao giờ hay như tên gọi.