Hẹn với tử thần - Chương 17

Hẹn với tử thần - Chương 17

Hẹn với tử thần
Chương 17

Ngày đăng
Tổng cộng 31 hồi
Đánh giá 8.5/10 với 31968 lượt xem

Bà Westholme bước vào phòng với một vẻ tự tin, như một con tàu xuyên Đại Tây Dương đang hiên ngang tiến vào bờ.
     Còn cô Amabel Pierce, giống như một con tàu không định hướng, theo gương con tàu lớn đi vào sau và ngồi xuống.
-         Chắc chắn là như vậy rồi, thưa ông Poirot, Bà Westholme nói trước. – Tôi rất lấy làm vui mừng được giúp đỡ ông bằng mọi cách theo khả năng quyền hạn của tôi. Tôi luôn luôn tâm niệm một điều, rằng đối với những vấn đề loại này, mọi người đều phải có bổn phận cộng tác.
    Khi bà Westholme đã diễn thuyết cái bổn phận của mình được vài phút, Poirot đủ khéo léo để đặt cho bà ta một câu hỏi.
-         Tôi có thể hồi tưởng lại một cách hoàn hảo những gì xảy ra vào cái buổi chiều đó,- bà Westholme trả lời. – Tôi và cô Pierce sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp đỡ ông.
-         Ồ ! Vâng, - cô Pierce thở dài, gần như là ngây ngất - Chiều này rất bi thảm, phải không ? cái chết chỉ trong nháy mắt !
-         Liệu bà có thể nói thật chính xác những việc xảy ra vào cái buổi chiều hôm đó không ?
-         Chắc chắn rồi, - bà Westholme nói : - Sau khi ăn trưa xong thì chnúg tôi quyết định nghỉ ngơi một chút. Chuyến đi thăm quan buổi sáng làm chúng tôi khá mệt mỏi. Tôi không mệt lắm. Tôi rất hiếm khi mệt mỏi. Thực sự thì tôi cũng chẳng biết mệt mỏi nó ra làm sao cả. Những người khác thì hay bị mệt, nhất là trong những dịp xã giao, tuy nhiên mọi người cảm thấy ra sao không quan trọng.
Poirot lại một lần nữa khéo léo đánh tiếng.
-         Như tôi vừa nói đó, tôi đi nghỉ trưa. Cô Pierce biết như thế.
-         Ồ vâng, - cô Pierce thở dài. – Tôi mệt khủng khiếp đi được sau cái buổi sáng đó. Chuyến leo núi thật nguy hiểm cũng thú vị đấy, nhưng mệt mỏi cũng khiếp. Tôi nghĩ là mình không hoàn toàn khoẻ mạnh như bà Westholme đây.
-         Sự mệt mỏi, - bà Westholme nói – Có thể bị những công việc khác làm cho nguôi ngoai đi. Quan điểm của tôi là không bao giờ chịu nhượng bộ trước những gì mà cơ thể mình đòi hỏi.
    Cô Pierce nhìn bà ta đầy vẻ thán phục.
    Poirot nói :
-         Thế sau bữa trưa thì cả hai bà đây đều trở về lều của mình sao ?
-         Vâng.
-         Bà Boynton lúc đó vẫn đang ngồi ở cửa hang của bà ta phải không ?
-         Cô con dâu bà ta đã giúp bà ta ngồi như vậy trước khi cô ta đi dạo
-         Cả hai bà đều nhìn thấy cô ta ?
-         Ồ vâng, cô Pierce nói. – Ông cũng biết là bà Westholme đây ở căn lều đối diện với tôi, nhưng tất nhiên là phải đi lên trên thêm một đoạn nữa.
    Bà Westholme giải thích thêm.
-         Tất cả cửa lều đều mở hướng vào vách núi. Dưới vách núi còn một số lều nữa. Dưới đó còn có một con suối nhỏ, cái lều to nhất và mấy cái lều khác được dựng vắt ngang qua con suối trên. Lều của tôi và của cô Pierce ở gần lều to. Cô ấy ở bên phải, còn tôi ở phía bên trái. Cả hai cái lều của chúng tôi đều mở cửa hướng vào vách núi, nhưng tất nhiên là chúng ở cách nhau một đoạn.
-         Theo tôi thì khoảng gần hai trăm thước.
-         Có thể đấy.
-         Ở đây tôi có một cái bản đồ, - Poirot nói – nó được vẽ với sự giúp đỡ của người thông dịch, Mahmoud.
    Bà Westholme cho rằng cái bản đồ có thể vẽ sai!
-         Người đàn ông đó là cực kỳ không chính xác. Tôi đã từng đối chiếu những lời thuyết minh của anh ta với cuốn sổ tay du lịch của tôi. Mấy lần liền, anh ta đã đưa ra những thông tin hoàn toàn sai lệch đấy.
-         Theo như bản đồ của tôi. – Poirot nói – cái lều ở cạnh lều của bà Boynton là của con trai bà ta, Lennox và vợ anh ta. Raymond, Carol và Ginevra Boynton ở những cái lều bên phải dưới mà thực ra là gần như đối diện với cái lều to. Lều của tiến sĩ Gerard ở bên phải lều của Ginevra Boynton. Còn cạnh lều của ông ta là lều của cô King. Ở phía bên kia, phía bên trái lều to, là lều của bà và ông Cope. Còn lều của cô Pierce, theo như bà nói là ở phía bên phải lều to. Điều đó có đúng không?
    Bà Westholme miễn cưỡng chấp nhận đó là những gì mà bà ta biết.
-         Tôi xin cám ơn bà. Mọi việc đã hoàn toàn sáng tỏ. Xin mời bà tiếp tục bà Westholme.
    Bà Westholme nhìn ông mỉm cười nhã nhặn và nói tiếp:
-         Lúc khoảng 4h kém 15 tôi đi bộ tới lều của cô Pierce xem cô ấy đã ngủ dậy chưa, tôi cảm thấy rất thích đi bộ. Cô Pierce lúc đó đang ngồi đọc sách trước cửa lều. Chúng tôi thỏa thuận là khoảng nửa tiếng nữa sẽ đi, khi mặt trời bớt nóng nực hơn. Tôi quay trở lại lều của mình đọc sách trong khoảng 25 phút. Sau đó thì tôi đi gặp cô Pierce. Cô ấy đã sẵn sàng và chúng tôi khởi hành. Tất cả mọi người trong lều hình như đều đang ngủ cả, chẳng có ai đi lại. Chúng tôi nhìn thấy bà Boynton đang ngồi ở đó một mình, tôi có gợi ý với cô Pierce là trước khi đi, chúng tôi nên hỏi xem bà ấy có cần gì không?
-         Vâng, đúng thế đấy. Tôi thấy là bà đây thật là chu đáo quá, cô Pierce lẩm bẩm.
-         Tôi thấy đây là nghĩa vụ của mình, bà Westhoime nói vẻ cực kỳ tự mãn.
-         Còn đối với bà ta thì thật là quá thô lỗ đi mất! cô Pierce ca than.
    Poirot nhìn dò hỏi.
-         Đường chúng tôi đi ở ngay dưới vách núi, - bà Westholme giải thích, - tôi có ghé vào chỗ bà ấy, nói là chúng tôi chuẩn bị đi dạo đây, liệu chúng tôi có thể làm gì cho bà trước khi đi không. Ông có biết không, ông Poirot, câu trả lời duy nhất mà bà ta ném vào mặt chúng tôi là một tiếng cằn nhằn ! Một tiếng cằn nhằn! Bà ta nhìn chúng tôi cứ như thể chúng tôi là … chúng tôi là một lũ bẩn thỉu vậy!
-         Thật là khiếm nhã!- cô Pierce nói, mặt đỏ bừng lên.
-         Tôi phải thú thật là, bà Westholme nói, hơi hơi đỏ mặt, - Lúc đó tôi đã nói một điều không được hay ho lắm.
-         Tôi nghĩ là bà hoàn toàn công bằng, - cô Pierce nói, - hoàn toàn công bằng trong những trường hợp như vậy.
-         Bà nói gì vậy? – Poirot hỏi.
-         Tôi có nói với cô Pierce là có lẽ bà ta say rượu ! Thực ra thì cái kiểu thói của bà ta rất lập dị. Lúc nào cũng vậy. Tôi cho là việc bà ta uống rượu cũng có thể là nguyên nhân. Tôi rất hiểu các tính xấu của những kẻ đam mê rượu chè.
    Một cách khéo léo, Poirot đã hướng câu chuyện ra khỏi chủ đề nghiện ngập.
-         Thế vào cái ngày đặc biệt đó, có lúc nào bà ta có tỏ ra lập dị khác thường không ? Ví dụ như ở bữa ăn trưa chẳng hạn ?
-         Kh … ông – bà Westholme vừa nói, vừa cân nhắc. – Không, đối với một phụ nữ Mỹ kiểu như bà ta, thì phải nói là lúc đó bà ta tỏ ra hoàn toàn bình thường, - Bà Westholme hạ cố nói thêm.
-         Bà ta dã lăng nhục một người phục vụ, - cô Pierce nói.
-         Người nào ?
-         Không bao lâu trước khi chúng tôi đi dạo.
-         Ồ đúng rồi, tôi nhớ ra rồi. bà ta đã rất phiền lòng vì anh ta ! Tất nhiên rồi. – Bà Westholme nói tiếp. - Phục vụ mà chẳng biết một từ tiếng Anh nào cả thì thật là mệt mỏi, nhưng điều tôi muốn nói  ở đây là khi người ta đi du lịch nước ngoài thì cũng phải tỏ ra vị tha chứ.
-         Người phục vụ nào vậy ? – Poirot hỏi.
-         Một trong những người Á Rập  trong lều. Anh ta đến gần bà Boynton. Tôi nghĩ là bà ta sai anh ta đi lấy một cái gì đó, mà anh ta thì lại mang cái không cần tới. Tôi không biết cái gì nhưng bà ấy tỏ ra rất tức giận. Người đàn ông tội nghiệp đó đã phải lỉnh ngay lập tức, còn bà ta thì vung gậy lên về phía anh ta và gào lên.
-         Bà ta gào cái gì ?
-         Chúng tôi ở xa quá không nghe được. Ít nhất thì tôi cũng không nghe thấy rõ ràng, cô có nghe được gì không cô Pierce ?
-         Không, tôi cũng không nghe thấy. Tôi nghĩ là bà Boynton sai anh ta đi lấy gì đó từ lều của cô con gái út hoặc có lẽ là bà ta cáu vì anh ta dã đi vào lều của con gái bà ta cũng nên. Tôi không thể nói chính xác được.
-         Trông anh ta thế nào ?
    Cô Pierce, người vừa được đặt câu hỏi, lắc đầu quả quyết.
-         Thực đấy, tôi không biết đâu. Anh ta ở xa quá. Mà đối với người Á Rập nào trông cũng giống nhau hết.
-         Anh ta người cao hơn mức trung bình, - bà Westholme nói – và đội một cái mũ vải mà người bản xứ hay đội. Anh ta mặc một cái quần ống túm ngắn cũn cỡn và vá chằng vá đụp, trông họ thật đáng xấu hổ, còn cái xà cạp của anh ta thì xoắn lại, không gọn gàng lắm. Dù sao đi nữa thì cần phải có kỷ luật với tất cả những người này !
-         Bà có thể chỉ ra anh ta trong số những ngưòi hầu ở đây không ?
-         Tôi e là khó. Chúng tôi không nhìn thấy mặt anh ta vì ở xa quá mà. Và như cô Pierce nói đó thì hầu như người Ả Rập nào trông cũng rất giống nhau.
-         Tôi băn khoăn, - Poirot nói vẻ ưu tư. – Không hiểu anh ta làm cái gì để bà Boynton phải giận dữ nhỉ ?
-         Đôi khi họ đã thử thách lòng kiên nhẫn của rất nhiều người rồi, Bà Westholme nói. - Một người bọn họ đã mang mất giày của tôi đi, dù tôi đã không ngớt lời nói với anh ta - cả bằng ra hiệu nữa là tôi muốn tự đánh lấy giày của mình.
-         Tôi cũng toàn tự làm lấy, - Poirot nói, sao lãng đi một chút cuộc thẩm vấn của mình. – Đi đâu tôi cũng mang bộ đánh giày bé tẹo đi cùng. Tôi cũng mang theo cả giẻ nữa.
-         Tôi cũng vậy, Bà Westholme nói vẻ rất tự nhiên.
-         Người Ả Rập họ không chịu phủi bụi trên đồ đạc của người khác đâu.
-         Không bao giờ ! Cho dù là người ta nên lau chùi đồ đạc khoảng ba đến bốn lần một ngày.
-         Những việc đó đáng làm lắm.
-         Vâng đúng vậy. tôi không thể chịu nổi sự dơ bẩn !
    Bà Westholme bày tỏ thái độ thẳng thừng như một người lính.
Bàta còn nói thêm :
-         Ruồi muỗi ở trong chợ thật khủng khiếp !
-         Đúng, đúng vậy, - Poirot nói – Chúng ta sẽ nhanh chóng hỏi người phục vụ đó cái gì đã khiến bà Boynton khó chịu. Xin mời bà tiếp tục câu chuyện của mình ?
-         Chúng tôi thả bộ từ từ, bà Westholme nói. -  Rồi chúng tôi gặp tiến sĩ Gerard. Ông ta bước đi loạng choạng, trông như đang bệnh nặng. Tôi có thể nhận thấy ngay là ông ta đang lên cơn sốt.
-         Ông ta run bắn cả người lên, - cô Pierce nói chen vào. - Từ đầu tới chân run lẩy bẩy.
-         Tôi biết ngay là ông ta đang lên cơn sốt rét, - bà Westholme nói – Tôi nói là sẽ cùng về và sẽ kiếm một ít thuốc kí ninh cho ông ta, nhưng mà ông ta nói là đã có sẵn thuốc rồi.
-         Một con người tội nghiệp, - cô Pierce nói – Ông biết đấy, thật là khủng khiếp khi thấy một bác sĩ mà lại bị ốm. Dù sao thì trông nó vẫn không được thuận lắm.
-         Chúng tôi tiếp tục đi, - bà Westholme nói tiếp. – sau đó thì ngồi nghỉ ở một phiến đá.
Cô Pierce lẩm bẩm :
-         Thật là quá mệt mỏi sau một buổi sáng phải luôn ráng sức mà leo núi như vậy.
-         Tôi chẳng bao giờ cảm thấy mệt mỏi, - bà Westholme nói chắc nịch. – Nhưng mà nói mãi chuyện này chẳng để làm gì cả. Cảnh sắc chung quanh thật là tuyệt đẹp, chúng tôi đã say sưa chiêm ngưỡng
-         Từ đó cả hai bà đều không nhìn thấy khu trại sao ?
-         Không, dù cả hai chúng tôi đều ngồi quay mặt về hướng đấy.
-         Thật là lãng mạn.- Cô Pierce nói - Một khu trại được dựng lên giữa xung quanh là những vách núi đá đỏ hoang dã.
Cô ta thở dài lắc đầu.
-         Cái khu trại đó đáng lẽ có thể đưọc quản lý tốt hơn bao nhiêu, - bà Westholme nói. Hai cái lỗ mũi hếch ngược của bà ta phổng lên. – Tôi sẽ nói chuyện này với Castle. Tôi không tin là nước uống đã được đun sôi hay là được lọc kỹ càng. Mà đáng ra là phải làm như vậy. Tôi sẽ chỉ thẳng điều này ra với họ.
Poirot húng hắng ho và mau chóng hướng câu chuyện ra khỏi chủ đề nước uống.
-         Hai bà có nhìn thấy người nào trong gia đình Boynton không ? – Ông hỏi.
-         Có chứ, người con cả của bà Boynton và vợ anh ta vượt trước chúng tôi trên đường quay trở về khu trại
-         Họ đi cùng nhau à ?
-         Không, ông Boynton đi trước. Trông ông ta có vẻ như là bị trúng nắng. Ông ta bước đi loạng choạng.
-         Vùng sau gáy rất quan trọng, - cô Pierce nói - Mọi người phải bảo vệ vùng sau gáy khi ra nắng ! Tôi luôn phải quàng một cái khăn lụa đấy.
-         Thế ông Lennox Boynton làm gì trên đường về ?- Poirot hỏi.
    Suốt từng ấy thời gian, lần đầu tiên cô Pierce lên tiếng trước khi bà Westholme kịp bắt đầu.
-         Ông ta tiến thẳng về chỗ mẹ mình, nhưng ông ta ở lại đó không lâu.
-         Khoảng bao lâu ?
-         Chỉ khoảng một hay hai phút gì đó.
-         Tôi thì cho là khoảng một phút thôi, - bà Westholme nói – Sau đó thì ông ta trở về lều của mình, rồi đi xuống lều lớn.
-         Thế còn vợ anh ta ?
-         Cô ta về sau muộn hơn khoảng 15phút. Cô ta dừng lại một chút chỗ chúng tôi để nói chuyện, hoàn toàn là xã giao.
-         Tôi nghĩ là cô ấy rất tốt, - cô Pierce nói - Thật sự là rất tốt.
-         Cô ta không quá đáng so với những người khác trong gia đình, - bà Westholme đồng ý.
-         Cả hai bà đều nhìn thấy cô ta quay trở về khu trại à ?
-         Vâng, Cô ta đi lên và có nói chuyện với mẹ chồng. Sau đó thì cô ta về lều của mình, mang ra một cái ghế và ngồi xuống cạnh bà ta nói chuyện một lúc. Tôi cho là khoảng chừng 10 phút.
-         Sau đó thì sao ?
-         Sau đó thì cô mang cái ghế trở lại lều và đi xuống lều lớn với chồng.
-         Chuyện gì xảy ra tiếp theo ?
-         Một người Mỹ rất kỳ dị đi tới, - bà Westholme nói – Tôi nghĩ tên ông ta là Cope. Ông ta nói với chúng tôi là ngay tại khúc ngoặc của thung lũng có một khu kiến trúc rất đẹp dù đã bị xuống cấp. Ông ta nói là chúng tôi không nên bỏ qua cơ hội đi xem nó. Vì thế chúng tôi tới đó. Ông Cope có một bài báo rất hay nói về Petra và Nabateans.
-         Khu kiến ttrúc đó rất đẹp. – Cô Pierce hồ hởi tuyên bố.
    Bà Westholme nói tiếp :
-         Chúng tôi quay trở lại khu trại, lúc đó khoảng sáu giờ kém hai mươi. Lúc đó trời rất lạnh.
-         Bà Boynton vẫn ngồi nguyên như thế khi các bà đi qua ư ?
-         Vâng.
-         Thế bà có nói chuyện với bà ta không ?
-         Không, thực ra thì tôi không chú ý mấy tới bà ta.
-         Thế bà ta làm gì tiếp theo ?
-         Tôi về lều của mình, thay giày và lấy ra một gói trà. Sau đó thì tôi cũng đi xuống lều to. Người hướng dẫn đã ở đó rồi và tôi bảo anh ta lấy gói trà đi pha cho tôi và cô Pierce, tôi muốn đảm bảo rằng nước mà anh ta dùng để pha trà đang phải được đun sôi trào lên cơ. Anh ta nói là bữa tối sẽ được dọn ra trong vòng nửa tiếng nữa. Những người phục vụ đang dọn bàn ăn nhưng tôi có nói việc đó không quan trọng.
-         Còn tôi luôn luôn cho là một tách trà làm nên mọi sự khác biệt, - Cô Pierce lơ đãng nói.
-         Lúc đó trong lều lớn có những ngưòi khác không ? Ồ, có chứ. Ông và bà Lennox Boynton ngồi ở một đầu đọc báo. Cả Carol Boynton cũng có ở đó.
-         Thế còn ông Cope ?
-         Ông ta uồng trà cùng chúng tôi. – cô Pierce nói, - ông ta có nói uống trà không phải là một thói quen của người Mỹ.
    Bà Westholme húng hắng ho.
-         Tôi e là ông Cope sẽ là một nỗi phiền toái của tôi. Ông ta cứ bám lằng nhằng lấy tôi. Đôi khi thật là khó để tránh phải tỏ ra thân mật với một ai đó, nhất là khi đang đi du lịch. Tôi thấy là họ có khuynh hướng muốn lợi dụng. Nhất là người Mỹ, đôi khi họ lại còn tỏ ra đần độn nữa chứ.
    Poirot ngọt ngào đồng tình:
-         Tôi hoàn toàn tin chắc là vậy, thưa bà Westholme, bà hoàn toàn có đủ khả năng để giải quyết những tình huống như thế. Khi đi du lịch, sự thân quen thật chẳng có ích lợi gì cho bà cả, tôi tin chắc bà là một người lão luyện để cắt đứt họ.
-         Tôi cho là mình đủ khả năng để đối phó với hầu hết mọi tình huống. – Bà Westholme  tự mãn nói.
    Đôi mắt của Poirot phát ra một tia sáng nhìn như xoáy vào bà ta.
-         Liệu bà có thể kể nốt những gì xảy ra ngày hôm đó không?  Ông hỏi.
-         Chắc chắn rồi. Theo như tôi còn nhớ thì Raymond Boynton và cô em gái có mái tóc đỏ như anh ta, đi vào hầu như ngay sau đó. Cô King là người tới sau cùng. Lúc đó, bữa tối đã được dọn sẵn ra rồi và một trong số những người phục vụ được người phiên dịch cử đi báo cho bà Boynton biết. Người này đi rồi chạy ngay về cùng với một ngưòi phục vụ khác trong trạng thái rất là bối rối và họ nói gì đó với người phiên dịch bằng tiếng Ả Rập. Họ có đề cập tới là hình như bà Boynton rất mệt. Cô King nói là cô ta sẽ đến xem thế nào. Sau đó thì cô ấy đi ra cùng với người phiên dịch. Khi quay lại, cô ta thông báo cái tin bà Boynton mất với những người trong gia đình Boynton.
-         Cô ta thông báo cái tin đó một cách đột ngột, - cô Pierce chen vào. - Cứ như là buột miệng ra ấy. Bản thân tôi thấy là với những cái tin như vậy phải nên thông báo một cách từ từ thôi.
-         Thế những ngưòi trong gia đình bà Boynton đón nhận cái tin đó như thế nào? – Poirot hỏi.
    Gần như đây là lần đầu tiên bà Westholme và cô Pierce đều tỏ ra lung túng. Cuối cùng thì bà Westholme cũng lên tiếng nhưng bằng một cái giọng đã thiếu đi vẻ tự tin như lúc đầu.
-         Ồ! thật ra chẳng biết nói thề nào nữa. Họ … họ đều im lặng khi được thông báo như vậy.
-         Bất ngờ quá, - cô Pierce nói.
Lời nói của cô ta dường như là một gợi ý hơn là một sự thật mà cô ta đã chứng kiến.
- Tất cả họ đều đi theo cô King, - bà Westholme vẫn tiếp tục nói.- Tôi và cô Pierce thì vẫn ở nguyên chỗ cũ.
    Vào lúc đó, Poirot quan sát thấy vẻ đăm chiêu uể oải trong mắt cô Pierce.
-         Tôi rất ghét tò mò một cách khiếm nhả! – Bà Westholme vẫn tiếp tục nói.
-         Ánh mắt đầy vẻ đăm chiêu của cô Pierce giờ càng trở nên rõ rệt hơn. Rõ ràng là cô ta cũng thấy, tất yếu là phải căm ghét cái tính tò mò bẩn thỉu!
-         Sau đó thì, - bà Westholme kết luận, - cô King và người phiên dịch quay trở lại. Tôi gợi ý là bữa tối nên dọn ngay ra cho cả bốn người chúng tôi trước, còn những người nhà Boynton có thể ăn sau ở trong lều vì như thế sẽ không bị sự hiện diện của những người khác làm phiền. Gợi ý của tôi được mọi người ủng hộ và ngay sau bữa ăn tôi đi về lều nghỉ ngơi. Cô King và cô Pierce cũng làm như vậy. Tôi cho là ông Cope vẫn ở lại trong lều. Ông ấy đúng là một người bạn của gia đình, ông ta ở lại xem có thể giúp được gì không. Đó là tất cả những gì mà tôi biết, thưa ông Poirot.
-         Khi cô King thông báo cái tin đó, thì tất cả mọi người nhà Boynton đều ra khỏi lều cùng với cô ta sao?
-         Vâng, à không, bây giờ ông nói thì tôi mới nhớ ra, cái cô gái có mái tóc hung đỏ thì ở lại. Có thể cô nhớ được điều gì chăng cô Pierce
-         Vâng, tôi nghĩ là … à, tôi tin chắc là cô ta ở lại.
Poirot hỏi.
-         Cô ta ở lại làm gì ?
-         Bà Westholme nhìn ông chằm chặp.
-         Cô ta làm gì à, ông Poirot ? Theo tôi nhớ thì cô ta chẳng làm gì cả ?
-         Ý của tôi là có thể cô ta đang khâu vá hay đang đọc sách chẳng hạn. Cô ta có lo lắng không ? Cô ta có nói gì không ?
-         Ồ, thực ra …, bà Westholme cau mày ; - Cô ta … à … cô ta chỉ có ngồi đó thôi, theo như tôi nhớ thì thế.
-         Cô ta vặn vẹo các ngón tay, - cô Pierce bỗng nói. – Tôi nhớ là mình đã để ý thấy thế. Đó có thể là cách cô ta biểu lộ cảm xúc ! Khuôn mặt cô ta thì chẳng biểu lộ gì cả, chỉ có hai bàn tay là vặn vẹo, xoay xở thôi.
-         Một lần, - cô Pierce nói, - tôi cũng đã từng xé tờ một bảng cũng theo kiểu như thế mà không hề để ý là mình đang làm gì đâu nhé,  vì lúc đó tôi đang nghĩ «  Liệu mình có nên đi chuyến tàu đầu tiên đến thăm bà ấy không nhỉ ? (đó là bà dì của tôi, bỗng dưng bà ấy lăn ra bệnh) hoặc là «hay mình không đi có được không ? ». Tôi không tài nào tự quyết định được là nên đi hay ở và khi nhìn xuống, tôi thấy thay cho bức điện thì tôi đã xé một tờ một bảng, một đồng tiền giấy, nát vụn ra rồi.
    Cô Pierce xúc động ngừng lời.
    Không mảy may để ý tới những gì cô Pierce vừa nói ra, bà Westholme lạnh lùng hỏi :
-         Còn chuyện gì nữa không, ông Poirot ?
    Câu hỏi dường như đã đưa Poirot thoát ra khỏi những suy nghĩ trầm tư trong đầu.
-         Không, không còn gì nữa đâu. Quý bà đã rất thẳng thắn, rất rõ ràng.
-         Tôi có một trí nhớ tuyệt vời đấy. Bà Westholme nói với vẻ mãn nguyện.
-         Thưa bà Westholme, chỉ là một yêu cầu nhỏ nữa thôi. – Poirot nói – Xin bà cứ ngồi nguyên như thế nhé, đừng nhìn xung quanh. Bây giờ, xin bà làm ơn tả hộ cho tôi xem hôm nay cô Pierce mặc gì nào nếu như cô Pierce không phản đối ?
-         Ồ không, không được đâu ! Cô Pierce líu ríu nói.
-         Ông Poirot, có vấn đề gì hay sao ?
-         Xin bà làm ơn làm những gì mà tôi vừa nói.
    Bà Westholme nhún vai và rồi bắt đầu nói bằng một cái giọng miễn cưỡng.
-         Cô Pierce mặc một cái váy vải cốt tông ( coton) sọc nâu trắng, đeo một cái thắt lưng của Su đăng bằng da có màu đỏ, xanh da trời và màu beige ( màu trắng ngà ) . Cô ta đi tất lụa ngắn màu beige và đôi giày có quai. Có một vết rách ở chiết tất trái của cô ta. Cô ta đeo vòng cổ bằng hạt cacnelian màu xanh lam thẫm. Cô ta cài một chiếc trâm ngọc hình con bướm. Cô ta đeo một chiếc nhẫn mỹ ký hình con bọ hung ở ngón tay thứ ba của bàn tay phải. Trên đầu cô ta đội một chiếc mũ nỉ hai màu nâu và hồng.
Bà ngừng lại, một sự im lặng  chứa đầy vẻ tự mãn trong đó. Rồi.
-         Có cần phải nói thêm gì không ? – bà ta lạnh lùng hỏi.
Poirot dang rộng cánh tay ra làm một cử chỉ quá ngạc nhiên.
-         Thưa bà, bà đã làm tôi hết sức ngưõng mộ. Sự quan sát của bà quả thực rất tinh tế.
-         Tôi hiếm khi bỏ sót một chi tiếc nào ?
Bà Westholme đứng dậy, hơi cúi đầu chào rồi rời khỏi phòng. Khi cô Pierce theo chân bà ta đi ra. Poirot đưa mắt nhìn xuống dưới chân cô ta và nói :
-         Xin đợi một chúc, thưa cô ?
-         Vâng ? – Cô Pierce ngẩng lên, một vẻ e dè lộ rõ trên khuôn mặt cô ta.
Poirot bí mật cúi người ra phía trước.
-         Cô có nhìn thấy bó hoa dại ở trên bàn kia không ?
-         Có, - cô Pierce nói, - mắt mở to nhìn Poirot chằm chằm.
-         Khi vào phòng, cô có để ý là tôi đã hắt hơi một hay hai lần không ?
-         Có.
-         Thế cô có để ý là tôi đã ngửi những bông hoa đó không ?
-         Ồ, thật ra thì … không … tôi không biết nữa.
-         Nhưng cô nhớ là tôi có hắt hơi ?
-         Ồ, có chứ, tôi nhớ là ông có ngửi hoa !
-         À, vâng được rồi ; không có chuyện gì đâu. Cô thấy đấy, tôi chỉ băn khoăn không hiểu những bông hoa này có gây bệnh sốt mùa hè hay không ấy mà. Không sao đâu !
-         Bệnh sốt mùa hè à ! – cô Pierce kêu lên – « Tôi nhớ là một bà chị họ của tôi đã bị bệnh này hành hạ ! Chị ấy bảo là nếu như em ngày nàocũng xịt a axít – bo ric thì …
Poirot hơi khó khăn khi tìm cách thoái thácv ra khỏi cái chủ đề bệnh viêm mũi của bà chiị họ cô Pierce và tống khứ được cô đi.
 
Ông đóng cửa và quay trở lại căn phòng, lông mày nhướn lên.
 
    Nhưng mà mình không hề hắt hơi, - Ông lẩm bẩm. – Chính xác như vậy, không, mình không hề hắt hơi cái nào mà

Chương trước Chương sau