Đời ảo - Chương 13
Đời ảo
Chương 13
Ngày đăng 29-12-2015
Tổng cộng 27 hồi
Đánh giá 9/10 với 23854 lượt xem
Trên đường rời khỏi phòng vệ sinh nam ở tiền sảnh, nơi tôi cố hết sức để tẩy sạch vết loang cà phê, khiến quần kaki ẩm và nhàu nhĩ, tôi đi qua một quầy báo nhỏ trong tiền sảnh của Cánh A, tòa nhà chính, ở đó có bán báo địa phương cùng tờ Nước Mỹ Ngày nay, Thời báo New York, Thời báo Tài chính màu hồng cam và tờ Nhật báo. Đống Nhật báo phố Wall mọi khi vẫn chất chồng giờ đã vơi một nửa, mà mới chỉ chớm bảy giờ sáng. Rõ ràng là mọi người ở Trion đều đang đọc nó. Tôi đoán các mẩu tin sao từ website của tờ Nhật báo giờ đã đến thư điện tử của tất cả mọi người. Tôi chào đại sứ hành lang và đi thang máy lên tầng bảy.
Trưởng nhân viên hành chính của Goddard, Flo, đã gửi thư cho tôi thông tin chi tiết về văn phòng mới. Đúng vậy, không phải một khoang làm việc mà là một văn phòng thứ thiệt, cùng cỡ với phòng của Jock Goddard (và nhân tiện nói luôn, cùng cỡ với phòng Nora và Tom Lundgren). Nó ở cuối hành lang đi từ văn phòng của Goddard, cũng tối như tất cả các văn phòng khác trên hành lang dành cho cấp điều hành. Tuy nhiên văn phòng của tôi sáng điện.
Ngồi ở bàn bên ngoài văn phòng là trợ lý hành chính mới của tôi, Jocelyn Chang, một phụ nữ Mỹ gốc Trung Quốc khoảng bốn mươi tuổi, trông độc đoán, mặc đồ thuần xanh. Chị ta có cặp lông mày cong hoàn hảo, tóc đen ngắn và đôi môi hình cánh cung nhỏ xíu được tô son màu hồng đào ướt mọng. Chị đang dán nhãn bản sắp xếp thư từ. Khi tôi tới gần, chị mím môi nhìn lên và chìa tay ra. “Anh hẳn là Cassidy.”
“Cứ gọi tôi là Adam,” tôi nói. Tôi không biết nữa, liệu đó có phải lỗi đầu tiên của tôi không? Tôi có phải giữ khoảng cách, tỏ ra nghi thức? Như thế dường như thật nực cười và không cần thiết. Rốt cuộc thì hầu hết tất cả mọi người ở đây có vẻ đều gọi Tổng Giám đốc Điều hành là “Jock”. Và tôi chỉ khoảng bằng nửa tuổi chị.
“Tôi là Jocelyn,” chị nói. Chị nói kiểu giọng mũi đều đều của vùng Boston, làm tôi không ngờ tới. “Rất vui được gặp anh.”
“Tôi cũng vậy. Flo bảo chị đã ở đây rất lâu, tôi rất mừng nghe tin đó.” Ối. Phụ nữ không thích bị nói thế đâu.
“Mười lăm năm,” chị thận trọng. “Ba năm cuối là cho Michael Gilmore. Người tiền nhiệm của anh. Ông ấy đã được giao nhiệm vụ khác vài tuần trước, vậy nên tôi trống việc.”
“Mười lăm năm. Tuyệt vời. Tôi sẽ cần mọi sự trợ giúp có thể được.”
Chị gật đầu, không cười, không gì cả. Rồi chị có vẻ nhận ra tờ Nhật báo dưới cánh tay tôi. “Anh không định kể nó với ông Goddard chứ?”
“Thật ra tôi định bảo chị viền và đóng khung nó rồi gửi làm quà cho ông ấy. Cho văn phòng của ông ấy.”
Chị trân trối nhìn tôi kinh hãi một lúc lâu. Rồi chầm chậm cười. “Đấy là đùa,” chị nói. “Đúng không?”
“Đúng vậy.”
“Xin lỗi. Ông Gilmore cũng không hẳn là có tính hài hước lắm.”
“Không sao. Tôi cũng thế.”
Chị gật đầu, không chắc phải phản ứng thế nào. “Được rồi.” Chị liếc mắt sang đồng hồ đeo tay. “Anh có cuộc họp lúc bảy giờ ba mươi với ông Goddard.”
“Ông ấy vẫn chưa tới.”
Chị lại nhìn đồng hồ. “Ông ấy sẽ tới. Thực ra tôi cá là ông ấy vừa mới đến. Ông ấy giữ một thời gian biểu rất đều đặn. Ồ, chờ đã.” Chị trao cho tôi một tài liệu nhìn rất hoành tráng, phải dài đến cả trăm trang, bọc trong da giả gì đó, trên đề BAIN & CÔNG TY. “Flo bảo ông Goddard muốn anh đọc cái này trước buổi họp.”
“Buổi họp là... hai phút rưỡi nữa.”
Chị nhún vai.
Đây có phải bài kiểm tra đầu tiên cho tôi không? Tôi không đời nào lại đọc được dù chỉ một trang của cái mớ lảm nhảm không thể hiểu nổi này trước khi họp, và tôi chắc chắn sẽ không đến muộn. BAIN & CÔNG TY là một hãng tư vấn quản lý toàn cầu cao giá, hay nhận những gã trạc tuổi tôi, những gã hiểu biết thậm chí còn ít hơn tôi, và vắt kiệt sức lao động của họ cho tới khi họ biến thành lũ ngu xuẩn chảy dãi, bắt họ tới các công ty và viết báo cáo, và thu hàng trăm nghìn đô cho sự thông thái giả tạo của mình. Tài liệu này có nhãn BÍ MẬT CỦA TRION. Tôi đọc lướt nó thật nhanh, và tất cả những câu rập khuôn và từ thông dụng nhảy ngay ra phía trước - “tổ chức lại quản trị tri thức”, “lợi thế cạnh tranh”, “tối ưu hóa hoạt động”, “chi phí không hiệu quả”, “những điểm không kinh tế về quy mô”, “giảm thiểu những việc không-gia-tăng-giá-trị”, vân vân vân - và tôi biết tôi thậm chí không cần phải đọc để biết chuyện gì sẽ xảy ra.
Cắt giảm nhân sự. Gặt đầu người trên cánh đồng đầy những lô làm việc.
Hấp dẫn ghê, tôi nghĩ. Hoan nghênh đến với cuộc sống ở tầng cao.
44
Goddard đã ngồi sẵn ở bàn tròn trong văn phòng phía sau của mình với Paul Camilletti và một người khác khi Flo dẫn tôi vào. Người thứ ba vào khoảng nửa cuối ngũ tuần, hói chỉ còn một dải tóc bạc, mặc một bộ đồ vét, sơ mi, cà vạt xám đơn điệu không hợp thời trang moi ra từ hiệu quần áo nam trong khu mua sắm nào đó, tay phải đeo một cái nhẫn lớn đồ sộ. Tôi nhận ra ông ta: Jim Colvin, Giám đốc Điều hành của Trion.
Căn phòng này cùng cỡ với văn phòng phía trước của Goddard, mỗi bề ba mét, và chỉ có bốn người ở đây mà cái bàn tròn rộng đã thấy chật chội. Tôi tự hỏi tại sao chúng tôi không họp ở phòng hội nghị nào đó, một nơi lớn hơn đôi chút, phù hợp hơn cho những lãnh đạo quyền cao chức trọng này. Tôi chào, cười căng thẳng, ngồi vào ghế cạnh Goddard, đặt xuống văn bản của hãng Bain và tách cà phê in chữ Trion Flo đã đưa cho tôi. Tôi lấy ra tập giấy màu vàng và bút, sẵn sàng ghi chép. Goddard và Camilletti đều mặc mỗi sơ mi, không áo khoác, - và không áo cổ lọ đen. Goddard trông thậm chí còn già nua và mệt mỏi hơn lần trước tôi nhìn thấy ông ta. Ông đeo một cặp kính gọng đen ngoắc vào sợi dây qua cổ. Trải trên bàn là vài bản sao chép bài báo trên tờ Nhật báo phố Wall, một bài được đánh dấu bằng mực vàng và xanh.
Camilletti cau có nhìn tôi khi tôi ngồi xuống. “Ai đây?” hắn hỏi. Không hẳn là “Rất mừng có anh cùng tham gia.”
“Anh vẫn nhớ anh Cassidy đây chứ?”
“Không.”
“Từ buổi họp về Maestro? Chuyện về quân sự ấy?”
“Trợ lý mới của anh,” hắn nói không nhiệt tình. “Phải rồi. Xin chào đến với trung tâm kiểm soát thiệt hại, Cassidy.”
“Jim, đây là Adam Cassidy,” Goddard nói. “Adam, còn đây là Jim Colvin, Giám đốc Điều hành của chúng ta.”
Colvin gật đầu. “Chào Adam. Chúng tôi vừa mới nói về cái bài chết tiệt trên tờ Nhật báo này, và làm thế nào để giải quyết nó.”
“Chà,” tôi nói vẻ từng trải, “chỉ là một bài báo thôi mà. Nó sẽ chóng qua trong vài ngày tới, chắc chắn vậy.”
“Vớ vẩn,” Camilletti gắt, trừng mắt nhìn tôi với biểu cảm đáng sợ tới mức tôi nghĩ mình sẽ hóa đá. “Đây là tờ Nhật báo. Nó ở ngay trang đầu. Ai cũng đọc nó. Thành viên hội đồng, nhà đầu tư mang danh nghĩa tổ chức, các nhà phân tích, tất cả mọi người. Đây đúng là một vụ lật tàu chết tiệt.”
“Không tốt chút nào,” tôi đồng ý. Tôi tự bảo mình từ giờ phải ngậm miệng lại.
Goddard thở ra thành tiếng.
“Điều rất không nên làm là xoay quá đà,” Colvin lên tiếng. “Chúng ta không muốn làm bốc lên tín hiệu khói hốt hoảng trong ngành.” Tôi thích từ “xoay quá đà”. Jim Colvin rõ ràng là dân chơi gôn.
“Tôi muốn có bộ phận Quan hệ Nhà đầu tư ở đây ngay, cả Truyền thông Tập đoàn nữa, và thảo phản hồi, một lá thư cho biên tập viên,” Camilletti nói.
“Quên tờ Nhật báo đi,” Goddard bảo. “Tôi nghĩ tôi sẽ đề nghị một bài phỏng vấn trực tiếp độc quyền với tờ Thời báo New York. Một cơ hội để đề cập những vấn đề quan ngại nổi cộm tới toàn ngành, tôi sẽ nói vậy. Họ sẽ cắn câu thôi.”
“Thế nào cũng được,” Camilletti nói.
“Dù thế nào chúng ta cũng đừng phản đối ầm ĩ quá. Chúng ta không muốn buộc tờ Nhật báo viết một bài tiếp theo, càng khuấy bùn đục thêm nữa.”
“Tôi nghe cứ như là phóng viên tờ Nhật báo hẳn có nói chuyện với người ở trong nội bộ này,” tôi nói, quên mất là phải ngậm miệng lại. “Chúng ta có manh mối nào xem ai có thể đã để lộ thông tin không?”
“Tôi có nhận được thư thoại từ tay phóng viên vài ngày trước, nhưng tôi đang ra nước ngoài,” Goddard nói. “Vì vậy tôi ‘không thể có ý kiến’.”
“Tay này có thể đã gọi tôi - tôi không biết nữa, tôi có thể kiểm tra hộp thư thoại của mình - nhưng tôi chắc chắn không trả lời cuộc gọi của anh ta,” Camiletti nói.
“Tôi không thể tưởng tượng nổi có ai ở Trion lại cố ý có phần trong chuyện này,” Goddard nói.
“Một trong những đối thủ cạnh tranh của chúng ta,” Camilletti nói, “Wyatt, có thể lắm.”
Không ai nhìn tôi. Tôi tự hỏi liệu hai người kia có biết tôi từ Wyatt đến không.
Camilletti tiếp tục. “Có rất nhiều đoạn ở đây trích dẫn lời những đại lý phân phối của chúng ta - British Tel, Vodafone, DoCoMo - về việc điện thoại di động mới không bán chạy. Bụt chùa nhà không thiêng. Vậy làm thế nào mà một phóng viên với dòng ghi tên tác giả có địa chỉ ở New York lại biết mà gọi cho DoCoMo ở Nhật Bản? Hẳn Motorola, Wyatt hay Nokia đã chỉ điểm.”
“Dù sao đi nữa,” Goddard nói, “đó cũng là chuyện đã qua rồi. Việc của tôi không phải là quản lý báo chí, mà là quản lý cái công ty đáng nguyền rủa. Và mẩu tin ngu xuẩn này nữa, dù có xuyên tạc và không đúng thế nào - chà, nó thì tệ được đến thế nào? Ngoại trừ dòng tít tử thần ra, trong này có bao nhiều điều mới mẻ chứ? Quý nào chúng ta cũng luôn đạt được đúng chỉ tiêu, không bao giờ trượt cả, có lẽ còn vượt qua một hai đồng gì đó. Chúng ta được phố Wall yêu quý. Rồi, tăng trưởng doanh thu hơi lẹt đẹt, nhưng trời ạ, cả ngành này đang lao đao! Tôi không thể không phát hiện ra một chút cái sự cười trên nỗi đau khổ của người khác trong mẩu tin này. Ngài Homer vĩ đại đã gật đầu.”
“Homer?” Colvin hỏi lại, bối rối.
“Nhưng tất cả mớ nhảm nhí này về việc chúng ta có thể phải đối diện với quý thất thu đầu tiên trong mười lăm năm,” Goddard nói, “hoàn toàn là bịa đặt...”
Camilletti lắc đầu. “Không,” hắn nói khẽ. “Thậm chí còn tệ hơn nữa.”
“Anh đang nói gì vậy?” Goddard hỏi. “Tôi vừa quay về từ hội nghị bán hàng của chúng ta ở Nhật, mọi chuyện đều tuyệt cú mèo!”
“Đêm qua khi nhận được thư điện tử thông báo về bài viết này,” Camilletti nói, “tôi đã gửi thư tới Phó Chủ tịch Tài chính khu vực châu Âu và châu Á/Thái Bình Dương, bảo họ tôi muốn xem tất cả số liệu doanh thu cho tới tuần này, số liệu doanh thu bán hàng của quý này cho tới ngày hiện tại, phân ra theo khách hàng.”
“Và?” Goddard thúc.
“Covington ở Brussels vừa trả lời tôi cách đây một giờ, Brody ở Singapore vào nửa đêm, và các con số nhìn rất thảm hại. Con số bán hàng cho đại lý khá tốt, nhưng con số bán thực thì kinh khủng. Châu Á/Thái Bình Dương và châu Âu, Trung Đông, châu Phi, đó là sáu mươi phần trăm doanh thu của chúng ta, và chúng ta đang rơi khỏi vách núi. Jock, sự thật thì chúng ta sẽ không đạt chỉ tiêu quý này, thậm chí còn cách một khoảng rất lớn. Đây thực sự là một thảm họa.”
Goddard liếc sang tôi. “Rõ ràng là anh đang nghe một số thông tin mật, không được công bố, Adam, hãy rõ ràng về chuyện đó, không một lời...”
“Dĩ nhiên rồi.”
“Chúng ta có,” Goddard lên tiếng, ngập ngừng rồi nói, “vì Chúa, chúng ta có AURORA...”
“Phải vài quý nữa mới bắt đầu có doanh thu từ AURORA,” Camilletti nói. “Lúc này chúng ta phải xoay xở. Cho những hoạt động hiện tại. Và tôi phải nói với ông là khi những con số này được công bố, cổ phiếu sẽ bị ảnh hưởng nặng nề,” Camilletti tiếp tục. Hắn nói nhỏ. “Doanh thu của chúng ta trong quý bốn sẽ dưới chỉ tiêu vào khoảng hai mươi lăm phần trăm. Chúng ta sẽ phải chịu gánh nặng lớn vì hàng tồn kho.”
Camilletti ngừng lời, nhìn Goddard đầy hàm ý. “Tôi ước tính lỗ trước thuế vào khoảng gần nửa tỷ đô.”
Goddard nhăn mặt. “Chúa ơi.”
Camilletti tiếp tục. “Tôi được biết ngân hàng CS First Boston đã muốn hạ chúng ta từ ‘mua nhiều hơn bình thường’ xuống ‘mua ở mức thị trường’ rồi. Thế là chuyển từ ‘mua’ về ‘giữ’. Và đó còn là trước khi có chuyện này xảy ra.”
“Ôi Chúa ơi,” Goddard nói, rên lên và lắc đầu. “Thật lố bịch khi chúng ta biết mình đang có thứ gì chờ ra lò.”
“Vì vậy chúng ta cần phải nhìn vào cái này,” Camilletti nói, trỏ ngón tay vào bản sao của tài liệu Bain màu xanh.
Goddard gõ gõ ngón tay lên bản nghiên cứu của Bain. Tôi để ý thấy những ngón tay đó mập mạp, mu bàn tay đầy những đốm đồi mồi. “Và là một bản báo cáo được bọc khá đẹp nữa,” ông nói. “Anh chưa bao giờ nói với tôi chúng ta phải tốn cho nó bao nhiêu.”
“Ông không biết thì tốt hơn,” Camilletti nói.
“Tôi không biết à?” ông nhăn mặt như thể hắn đã nói đúng vấn đề. “Paul, tôi đã thề tôi sẽ không bao giờ làm điều này. Tôi đã hứa.”
“Trời ạ, Jock, nếu đây là về lòng tự trọng, hư danh của ông thì...”
“Đây là về việc giữ lời. Nó cũng là về sự tín nhiệm của tôi.”
“Chà, ông lẽ ra không bao giờ nên hứa như thế. Không bao giờ nói không bao giờ. Dù sao đi nữa thì ông cũng đang nói về một nền kinh tế khác - thời kỳ tiền sử. Đại Trung Sinh, vì Chúa. Tàu phản lực Trion, gia tăng với tốc độ nhanh hơn ánh sáng. Chúng ta là một trong số ít các công ty công nghệ cao vẫn chưa đụng tới cắt giảm nhân sự.”
“Adam,” Goddard nói, quay lại tôi và nhướn mắt nhìn trên gọng kính. “Anh đã có cơ hội cày qua mớ vô nghĩa này chưa?”
Tôi lắc đầu. “Tôi chỉ vừa mới nhận được nó vài phút trước. Tôi đã đọc lướt.”
“Tôi muốn anh nhìn kỹ vào những dự đoán về điện tử tiêu dùng. Trang tám mươi gì đó. Anh có hiểu biết về nó.”
“Ngay bây giờ?” tôi hỏi.
“Ngay bây giờ. Và cho tôi biết anh có thấy chúng thực tế không?”
“Jock,” Jim Colvin nói, “đơn thuần là không thể lấy dự đoán trung thực từ bất cứ người lãnh đạo bộ phận nào. Họ đều bảo vệ số đầu nhân sự của họ, canh giữ địa phận của mình.”
“Vì thế nên Adam ở đây,” Goddard trả lời. “Cậu ta không có địa phận để canh giữ.”
Tôi vội vã giở qua bản báo cáo của Bain, cố làm ra vẻ như tôi biết mình đang làm gì.
“Paul,” Goddard nói, “chúng ta đã trải qua tất cả những điều này trước đây. Anh sẽ bảo tôi chúng ta phải cắt giảm tám nghìn lao động nếu chúng ta muốn tinh gọn hiệu quả.”
“Không, Jock, nếu chúng ta muốn vẫn có khả năng thanh toán. Và là khoảng mười nghìn lao động thì đúng hơn.”
“Phải rồi. Vậy nói cho tôi biết một vài điều. Không đâu trong bản chuyên luận đáng nguyền rủa này cho biết một công ty giảm hay điều chỉnh kích cỡ, hay anh muốn gọi nó như thế nào cũng được, sẽ còn khá hơn về lâu dài. Tất cả những gì được nói tới là ngắn hạn.” Camilletti trông như thể muốn đáp lại, nhưng Goddard cứ nói tiếp, “Ồ, tôi biết, ai cũng làm thế. Đó là một phản ứng tự nhiên như gõ khớp gối. Kinh doanh sa sút? Loại bỏ vài người đi. Vứt vật nặng ra khỏi tàu. Nhưng cắt giảm nhân sự liệu có thể thực sự dẫn tới tăng trưởng bền vững về giá cổ phiếu hay thị phần không? Quỷ tha ma bắt, Paul, cả anh và tôi đều biết là ngay khi trời quang trở lại, chúng ta rồi sẽ tái tuyển dụng phần lớn bọn họ. Thực sự thì có đáng cả vụ hỗn độn chết tiệt này không?”
“Jock,” Jim Colvin nói, “điều này được gọi là Luật Tám mươi - Hai mươi, hai mươi phần trăm người làm tám mươi phần trăm công việc. Chúng ta chỉ loại bỏ phần mỡ thừa thôi.”
“Phần ‘mỡ thừa’ đó là những nhân viên Trion tận tụy,” Goddard phản bác. “Những người mà chúng ta đã trao những huy hiệu văn hóa nho nhỏ về lòng trung thành và sự cống hiến. Chà, có đi có lại, không phải sao? Chúng ta mong chờ sự trung thành ở họ, nhưng họ không nhận được lại từ chúng ta sao? Theo tôi thấy, nếu các anh cứ tiếp tục đi xuống con đường này, các anh sẽ không chỉ mất số đầu nhân sự đâu. Các anh sẽ để mất cốt lõi của lòng tin. Nếu các nhân viên của chúng ta đã làm trọn vẹn nửa hợp đồng của họ, sao chúng ta lại không phải làm như vậy? Như thế là vi phạm niềm tin quá lắm.”
“Jock,” Colvin nói, “sự thật là ông đã làm cho nhiều nhân viên Trion trở nên giàu có trong mười năm qua.”
Trong khi đó tôi phi nhanh qua những biểu đồ về doanh thu dự kiến, cố so sánh chúng với những con số tôi đã thấy trong vài tuần qua.
“Đây không phải là lúc để suy nghĩ cao thượng, Jock,” Camilletti nói. “Chúng ta không có sự xa xỉ đó.”
“Ồ, tôi không suy nghĩ cao thượng,” Goddard nói, lại gõ tiếp ngón tay lên mặt bàn. “Tôi đang thực tế đến thô bạo. Tôi không khó khăn gì mà không loại bỏ nổi những kẻ lười biếng, những kẻ xuống dốc hay nhẩn nhơ chờ nghỉ hưu sớm. Cứ thẳng tay với bọn họ đi. Nhưng cắt giảm nhân sự ở quy mô này chỉ dẫn tới tình trạng vắng mặt không lý do chính đáng, nghỉ ốm, rồi người ta đứng quanh máy làm lạnh nước hỏi nhau về tin đồn mới nhất. Chứng tê liệt. Để tôi nói theo cách anh có thể hiểu được, Paul, thì đó gọi là giảm năng suất.”
“Jock...” Colvin lên tiếng.
“Tôi sẽ cho anh luật tám mươi - hai mươi,” Goddard nói. “Nếu chúng ta làm điều này, tám mươi phần trăm trong số những nhân viên còn ở lại sẽ không thể tập trung quá hai mươi phần trăm tâm lực vào công việc. Adam, anh thấy các dự đoán như thế nào?”
“Ông Goddard.”
“Tôi đã sa thải người cuối cùng gọi tôi như thế.”
Tôi cười. “Jock. Xem nào, tôi sẽ không quanh co. Tôi không biết phần lớn các số liệu, và tôi sẽ không nói thiếu suy xét. Không phải về một điều quan trọng như thế này. Nhưng tôi biết về số liệu của Maestro, và tôi có thể nói thẳng với ông là nó lạc quan quá mức. Cho tới khi chúng ta chuyển hàng tới Lầu Năm Góc - cứ cho là chúng ta nhận được vụ đó - thì những con số này vẫn còn quá cao.”
“Cũng có nghĩa là tình huống thậm chí còn tồi tệ hơn những gì mà các nhà tư vấn trăm-nghìn-đô của chúng ta nói.”
“Phải, thưa giám đốc. Ít nhất nếu như những con số Maestro nói lên điều gì.”
Ông gật đầu.
Camilletti nói, “Jock, để tôi nói với ông theo khái niệm của con người. Bố tôi chỉ là một giáo viên khốn khổ, được chứ? Cho sáu đứa con đi học đại học bằng tiền lương của giáo viên, đừng hỏi tôi làm thế nào, nhưng ông ấy đã làm được. Giờ ông ấy và mẹ tôi đang sống bằng khoản tiết kiệm cả đời ít ỏi, phần lớn trong số đó đã đổ vào cổ phiếu của Trion, bởi tôi nói với ông ấy đây là một công ty rất tuyệt vời. Theo chuẩn mực của chúng ta thì số tiền đó không nhiều, nhưng ông ấy đã mất đi hai mươi sáu phần trăm tiền dự trữ, và ông ấy sắp mất đi còn nhiều hơn thế nhiều. Quên quỹ tài chính Fidelity và TIAACREF đi. Phần đông những cổ đông của chúng ta là những người như bố tôi, Tony Camilletti, và chúng ta phải nói gì với họ?”
Bản năng mách bảo tôi rằng Camilletti đang dựng lên chuyện này, rằng trên thực tế thì ông bố chủ ngân hàng đầu tư của hắn sống trong một khu nhà có cổng gác ở Boca và rất hay chơi gôn, nhưng mắt Goddard dường như ngân ngấn.
“Adam,” Goddard nói, “anh hiểu quan điểm của tôi chứ, phải không?”
Trong một khoảnh khắc tôi cảm thấy như con nai cứng người lại dưới ánh đèn pha. Điều Goddard muốn nghe được từ tôi đã rõ ràng. Nhưng sau vài giây, tôi lắc đầu. “Theo tôi,” tôi chậm rãi nói, “tình hình có vẻ là nếu ông không làm thế bây giờ, một năm sau có thể ông sẽ phải cắt giảm thậm chí còn nhiều lao động hơn nữa. Vậy tôi phải nói là tôi đồng ý với ông... - à, với Paul.”
Camilletti đưa tay ra vỗ vào vai tôi. Tôi hơi co người lại. Tôi không muốn tỏ ra như tôi đang lựa chọn bên chống lại sếp của mình. Không phải cách hay để bắt đầu một công việc mới.
“Anh đề xuất những điều khoản như thế nào?” Goddard thở dài nói.
Camilletti cười. “Bốn tuần trợ cấp mất việc.”
“Dù họ có làm với chúng ta bao lâu chăng nữa? Không. Hai tuần trợ cấp mất việc cho mỗi năm làm với chúng ta, cộng với hai tuần phụ thêm cho mỗi năm sau mười năm.”
“Như thế thật điên rồ, Jock! Trong vài trường hợp, chúng ta có thể sẽ trả một năm trợ cấp mất việc, có thể là hơn.”
“Đấy không phải là bồi thường nữa,” Jim Colvin lẩm bẩm. “Đấy là phúc lợi.”
Goddard nhún vai. “Hoặc chúng ta cắt giảm với những điều khoản đó, hoặc không cắt giảm gì hết.” ông ta nhìn tôi buồn rầu. “Adam, nếu anh có bao giờ ra ngoài ăn tối với Paul, đừng để anh ta chọn rượu.” Rồi ông quay lại Giám đốc Tài chính của mình. “Anh muốn đợt cắt giảm này có hiệu lực vào mùng một tháng Sáu đúng không?”
Camilletti gật đầu thận trọng.
“Đâu đó trong thâm tâm,” Goddard nói, “tôi lờ mờ nhớ là chúng ta đã ký một hợp đồng thôi việc có thời hạn một năm với bộ phận CableSign chúng ta mua được từ năm ngoái, nó sẽ hết hạn vào ba mươi mốt tháng Năm. Một ngày trước đó.”
Camilletti nhún vai.
“Chà, Paul, như vậy là gần một nghìn nhân viên sẽ có một tháng lương cộng thêm một tháng tiền trợ cấp cho mỗi năm làm việc - nếu chúng ta cho họ thôi việc một ngày trước đó. Một gói trợ cấp mất việc tươm tất. Một ngày này làm nên cả sự khác biệt với những người đó. Giờ họ sẽ chỉ nhận được vẻn vẹn hai tuần.”
“Mùng một tháng Sáu là bắt đầu quý mới…”
“Tôi sẽ không làm như vậy. Xin lỗi. Đặt vào ngày ba mươi tháng Năm đi. Và với những người đang bị thiệt vì cổ phiếu họ có quyền chọn mua đang mất giá, chúng ta sẽ cho họ mười hai tháng để giải quyết. Và tôi sẽ tự nguyện giảm lương - xuống còn một đô thôi. Anh thì sao, Paul?”
Camilletti cười căng thẳng, “Ông có nhiều quyền chọn cổ phiếu hơn tôi.”
“Chúng ta sẽ làm điều này một lần,” Goddard nói. “Làm một lần, và làm cho đúng. Tôi sẽ không cắt giảm hai lần đâu.”
“Hiểu rồi,” Camilletti nói.
“Được rồi,” Goddard thở dài. “Như tôi lúc nào cũng bảo các anh, đôi khi các anh phải vào xe, thực hiện chương trình. Nhưng đầu tiên tôi muốn công bố điều này cho toàn bộ đội ngũ quản lý, tập trung họ vào hội nghị càng đông càng tốt. Tôi cũng muốn gọi điện thoại cho các ngân hàng đầu tư của chúng ta. Nếu chuyện này được chấp thuận, như tôi sợ rằng sẽ như vậy, tôi sẽ thu một thông báo đăng trên web cho toàn công ty,” Goddard nói, “và chúng ta sẽ công bố nó vào ngày mai, sau khi đóng phiên giao dịch. Và thông báo với công chúng cùng lúc đó. Tôi không muốn một lời nào của chuyện này bị tiết lộ ra ngoài trước khi đó - nó sẽ gây mất tinh thần.”
“Nếu ông thích, tôi sẽ thông báo,” Camilletti nói. “Như thế tay ông vẫn sạch sẽ.”
Goddard trừng mắt nhìn Camilletti.
“Tôi sẽ không đổ chuyện này cho anh. Tôi không làm thế. Đây là quyết định của tôi - tôi đã nhận công, nhận vinh quang, có mặt trên bìa tạp chí, và tôi cũng sẽ nhận cả lời trách móc. Cũng phải thôi.”
“Tôi chỉ nói vậy vì ông đã tuyên bố quá nhiều điều trước đây. Ông sẽ hứng chịu mũi rìu...”
Goddard nhún vai, nhưng trông khổ sở. “Giờ tôi đoán tất cả mọi người sẽ đều gọi tôi là Goddard Lưỡi Cưa hay gì đó.”
“Tôi nghĩ ‘Jock Neutron’ nghe khá hơn.” Tôi nói, và lần đầu tiên Goddard thực sự đã mỉm cười.
45
Tôi rời văn phòng của Goddard vừa thấy nhẹ nhõm, vừa thấy nặng nề.
Tôi đã qua được cuộc họp đầu tiên với ông ta, không tự biến mình thành trò hề. Nhưng tôi cũng biết được một bí mật lớn của công ty, một tin nội bộ xác thực sẽ làm thay đổi cuộc sống của nhiều người.
Vấn đề là thế này: tôi đã quyết định rằng mình sẽ không chuyển thông tin này cho Wyatt và công ty của lão. Nó không nằm trong nhiệm vụ của tôi, không ở trong mô tả công việc. Nó chẳng có liên quan gì tới dự án bí mật cả. Cứ để bọn họ biết về vụ cắt giảm nhân sự của Trion khi tất cả những người khác biết.
Khi tôi vừa lơ đãng bước ra khỏi thang máy trên tầng ba của Cánh A để ăn trưa muộn trong phòng ăn thì tôi thấy một khuôn mặt quen thuộc tới gần. Một gã thanh niên cao, gầy, gần ba mươi, tóc cắt xấu xí, gọi với lên, “Này, Adam!” khi bước vào thang máy.
Thậm chí trong một tích tắc trước khi tôi có thể nhớ ra cái tên của khuôn mặt đó, bụng tôi đã thắt lại. Não sau bản năng đã nhận thấy nguy hiểm khi não trước còn chưa kịp nhận ra.
Tôi gật đầu, tiếp tục đi. Mặt đỏ bừng.
Tên hắn là Kevin Griffin, một anh chàng nhã nhặn, nếu không nói là trông ngốc nghếch, và là một tay bóng rổ khá được. Tôi thường chơi bóng rổ với hắn ở hãng Viễn thông Wyatt. Hắn là nhân viên bán hàng ở Bộ phận Kinh doanh, về thiết bị định tuyến. Tôi còn nhớ hắn rất sắc sảo, rất tham vọng đằng sau cách hành xử thoải mái đó. Hắn luôn làm vượt doanh số của mình, và hắn thường đùa với tôi, theo kiểu tử tế, về thái độ thiếu trách nhiệm của tôi trong công việc.
Nói cách khác, hắn biết tôi thực sự là ai.
“Adam!” hắn kiên trì. “Adam Cassidy! Này, ông làm gì ở đây thế?”
Tôi không thể cứ tảng lờ hắn đi mãi, nên tôi quay lại. Hắn để một tay ở cánh cửa thang máy để giữ nó không đóng lại.
“Ồ, chào Kevin,” tôi nói. “Ông giờ làm ở đây à?”
“Phải, về kinh doanh.” Hắn trông rất vui sướng, như thể đây là một cuộc họp lớp trung học hay gì đó. Hắn hạ giọng. “Không phải bọn họ đá ông khỏi Wyatt vì bữa tiệc đó à?” Hắn phát ra âm thanh như là cười thầm, không phải tính xấu gì đâu, chỉ theo kiểu bí bí mật mật thôi.
“Đâu có,” tôi nói, ấp úng một giây, cố tỏ ra vô tư lự và vui vẻ. “Chỉ là một sự hiểu lầm lớn thôi.”
“Ờ,” hắn nói với vẻ hoài nghi, “Ông làm chỗ nào ở đây?”
“Vẫn như thế, vẫn như thế,” tôi nói. “Này, rất vui gặp ông. Xin lỗi, tôi phải chạy đi đây.”
Hắn nhìn theo tôi tò mò khi cửa thang máy đóng lại.
Không hay chút nào.