Đời ảo - Chương 07

Đời ảo - Chương 07

Đời ảo
Chương 07

Ngày đăng
Tổng cộng 27 hồi
Đánh giá 8.5/10 với 23842 lượt xem

Nhóm tiếp thị Maestro lại họp tại phòng Corvetter, mọi người ngồi gần như đúng chỗ cũ, giống như chúng tôi đã được phân chỗ vậy.
Nhưng lần này có mặt Tom Lundgren trong phòng, ngồi trên một cái ghế dựa vào tường ở hàng sau, không ngồi tại bàn họp. Rồi, ngay trước khi Nora yêu cầu cuộc họp bắt đầu, Paul Camilletti, Giám đốc Tài chính của Trion bước vào, nom chỉnh tề như một người mẫu được ái mộ bước ra từ tờ Thời trang Ái tình Ý, áo vét vải thô kẻ ô vuông màu xám đậm khoác ra ngoài áo cổ lọ đen. Hắn ngồi xuống cạnh Tom Lundgren, và ta có thể thấy cả phòng lặng đi, được nạp điện, như thể ai đó vừa bật công tắc vậy.
Thậm chí cả Nora trông cũng có chút hồi hộp. “Được rồi,” mụ nói. “Chúng ta bắt đầu nhỉ? Tôi rất vui mừng được chào đón Paul Camilletti, Giám đốc Tài chính của chúng ta - Xin chào, Paul.”
Hắn cúi đầu, kiểu thừa nhận rằng, Đừng để ý tới tôi - tôi sẽ chỉ ngồi đây không tung tích, vô danh, nhỏ bé như con voi trong cái phòng này thôi.
“Còn ai khác nữa dự buổi họp này? Ai sẽ tham dự từ xa?”
Một giọng nói phát ra từ loa liên lạc: “Ken Hsiao, từ Singapore.”
Rồi: “Mike Matera, từ Brussels.”
“Được rồi,” mụ nói. “Vậy tất cả mọi người đã ở đây.” Trông mụ hào hứng, sôi nổi, nhưng khó mà nói được bao nhiều phần là vở diễn về lòng nhiệt tình mà mụ bày ra cho Tom Lundgren và Paul Camilletti xem. “Thời điểm này cũng khá thích hợp để xem xét các dự báo, đào sâu nghiên cứu và nhận thức rõ về vị thế của chúng ta. Không ai trong chúng ta muốn nghe câu nói sáo rỗng cũ kỹ, ‘thương hiệu đang chết dần’, đúng vậy không? Maestro không phải thương hiệu đang chết dần. Chúng ta sẽ không phá hoại danh tiếng thương hiệu mà Trion đã xây dựng cho dòng sản phẩm này chỉ vì sự mới lạ. Tôi cho rằng tất cả chúng ta đều đồng tình về việc đó.”
“Nora, đây là Ken từ Singapore.”
“Sao, Ken?”
“Ừm, tôi phải nói là ở đây chúng tôi đang cảm thấy một chút áp lực từ Palm, Sony và Blackberry, đặc biệt là ở khu vực Doanh nghiệp. Đơn đặt hàng trước cho Maestro Gold ở Châu Á Thái Bình Dương có phần hơi yếu.”
“Cảm ơn, Ken,” mụ vội vã cắt lời ông ta. “Kimberly, anh thấy thế nào về nhóm kênh?”
Kimberly Ziegler, uể oải và căng thẳng với cái đầu quăn tít và đeo kính gọng sừng, ngước nhìn lên. “Tôi phải nói là quan điểm của tôi khá khác so với Ken.”
“Thật sao? Như thế nào?”
“Thật ra tôi thấy sự phân biệt sản phẩm có lợi cho chúng ta. Chúng ta có giá thành tốt hơn cả thiết bị nhắn tin tiên tiến của Blackberry và Sony. Đúng là thương hiệu có phần bị mai một, nhưng nâng cấp bộ xử lý và bộ nhớ flash sẽ thực sự mang lại giá trị. Vì vậy tôi nghĩ chúng ta nên bám trụ, đặc biệt ở các thị trường chuyên sâu.”
Đồ nịnh hót, tôi nghĩ.
“Tuyệt vời,” Nora rạng rỡ. “Rất mừng nghe điều đó. Tôi cũng sẽ rất hứng thú được nghe bất cứ phản hồi nào về GoldDust.” Mụ thấy Chad giơ ngón tay trỏ lên. “Sao, Chad?”
“Tôi nghĩ có lẽ Adam sẽ có một vài suy nghĩ về GoldDust.”
Mụ ta quay về phía tôi. “Tuyệt quá, nghe thử xem nào,” mụ nói như thể tôi vừa xung phong ngồi xuống chơi piano.
“GoldDust?” tôi cười tự mãn ra vẻ hiểu biết. “Cái thứ đó nghe giống năm 1999 đến thế nào chứ? Một Betamax[9] trên lĩnh vực không dây. Nó xếp cùng với New Coke, nền Cold Fusion, giải bóng bầu dục XFL và xe hơi Yugo.”
Có vài tiếng cười khúc khích tán thưởng. Nora quan sát tôi chăm chú.
Tôi tiếp tục, “Những vấn đề về tính tương thích của nó quá nặng nề tới mức chúng ta thậm chí không muốn nói tới nữa - ý tôi là việc các thiết bị hỗ trợ GoldDust chỉ hoạt động được với các thiết bị cùng nhà sản xuất, không có bất cứ chuẩn mực nào. Philips luôn nói là họ sẽ tung ra một phiên bản mới của GoldDust, được chuẩn hóa - ờ, đúng rồi, có lẽ khi mà tất cả chúng ta đều nói Quốc tế ngữ.”
Có thêm tiếng cười, dù tôi để ý thoáng qua là có lẽ nửa số người trong phòng mặt lạnh như tiền. Tom Lundgren đang nhìn tôi với nụ cười quanh co khôi hài, chân phải rung lên rung xuống.
Giờ tôi thực sự bốc lên, nói hăng say. “Tôi muốn nói là tốc độ truyền thì như thế nào chứ, dưới một megabit trên giây? Thật là thảm hại. Chưa bằng một phần mười của WiFi. Thứ này cổ lỗ sĩ rồi. Và đấy là chưa kể tới việc nó dễ bị chặn như thế nào, chẳng có tí bảo mật nào cả.”
“Chính xác,” ai đó thấp giọng nói, tôi không thể xác định được là ai. Mordden trông rạng rỡ rành rành ra. Phil Bohjalian đang nheo mắt quan sát tôi, vẻ mặt bí hiểm không thể hiểu được. Rồi tôi nhìn bao quát hơn và thấy Nora. Mặt mụ đỏ bừng. Ý tôi là bạn có thể thấy một đợt sóng đỏ dâng lên dần từ cổ tới cặp mắt mở trừng trừng của mụ.
“Anh nói xong chưa?” mụ gắt.
Đột nhiên tôi thấy nôn nao. Đây không phải là phản ứng tôi chờ đợi. Sao nhỉ, hay là tôi đã nói quá dài? “Rồi,” tôi thận trọng đáp.
Một gã trông giống người Ấn Độ ngồi bên kia tôi lên tiếng, “Tại sao chúng ta lại nhắc lại điều này? Tôi nghĩ chị đã ra quyết định cuối cùng về vấn đề này tuần trước rồi chứ Nora. Chị có vẻ rất chắc chắn là tính năng thêm vào này đáng với chi phí bỏ ra. Vậy tại sao bộ phận tiếp thị các anh chị lại quay lại cuộc tranh luận cũ này? Không phải chuyện đã được giải quyết rồi ư?”
Chad dán mắt vào bàn, lên tiếng, “Thôi nào mọi người, để anh bạn mới tới này nghỉ ngơi một chút chứ? Mọi người không thể mong cậu ấy biết tất cả mọi chuyện được - cậu ấy thậm chí còn không biết máy cà phê cappuccino ở đâu nữa, thôi nào.”
“Tôi nghĩ chúng ta không phải tốn thêm thời gian ở đây nữa,” Nora nói. “Chuyện này đã được quyết định xong. Chúng ta sẽ cho GoldDust vào.” Mụ nhìn tôi cực kỳ tức giận.
Sau hai mươi phút ruột gan cồn cào, buổi họp kết thúc và lúc mọi người bắt đầu rời khỏi phòng, Mordden lén vỗ nhanh vai tôi, cái vỗ vai đã nói lên tất cả. Tôi đã làm hỏng chuyện, lớn chuyện luôn. Người ta đang nhìn tôi với đủ loại ánh mắt tò mò.
“Ừm, Nora.” Paul Camilletti giơ ngón tay lên. “Chị ở lại vài giây được không? Tôi muốn xem xét lại mấy thứ.”
Khi tôi đi ra, Chad tới chỗ tôi và hạ giọng nói: “Có vẻ là chị ấy không đón nhận nó lắm. Nhưng đó đúng là thông tin đáng giá đấy.”
Ờ phải, thằng chó.
20
Khoảng mười lăm phút sau khi cuộc họp kết thúc, Mordden ghé qua khoang làm việc của tôi.
“Chà, khá lắm,” hắn nói.
“Thật chứ?” tôi nói chẳng mấy nhiệt tình.
“Chắc chắn rồi. Cậu dũng cảm hơn anh nghĩ nhiều đấy. Đối đầu lại cả sếp của mình, mụ Nora đáng sợ, trong dự án yêu quý của mụ...” Hắn lắc đầu. “Đúng là sức căng sáng tạo đấy. Nhưng cậu cũng nên nhận thức được hậu quả cho hành động của mình. Nora không quên chuyện ai coi nhẹ mình đâu. Hãy ghi nhớ rằng những tên lính gác tàn nhẫn nhất trong các trại tập trung của Đức Quốc Xã là phụ nữ.”
“Cảm ơn lời khuyên,” tôi nói.
“Cậu nên cảnh giác với những dấu hiệu nhỏ bé cho thấy Nora không hài lòng. Ví dụ như những cái hộp rỗng chất đống bên cạnh khoang làm việc của cậu. Hay đột nhiên không thể đăng nhập vào máy tính. Hay là bên Nhân sự đòi phù hiệu lại. Nhưng đừng lo, họ sẽ cho cậu lời giới thiệu tốt, và dịch vụ hỗ trợ tìm việc của Trion miễn phí đấy.”
“Vậy à. Cảm ơn.”
Tôi thấy mình có thư thoại. Sau khi Mordden đi, tôi nhấc điện thoại lên.
Đó là tin nhắn của Nora Sommers, bảo tôi - không, ra lệnh cho tôi - đến văn phòng của mụ ngay lập tức.
Mụ đang gõ bàn phím khi tôi đến.
Mụ liếc xéo nhanh qua tôi như loài bò sát, rồi quay lại máy tính của mình. Mụ lờ tôi đi phải đến hai phút. Tôi đứng đó lúng túng ngượng nghịu. Mặt mụ lại bắt đầu đỏ bừng - tôi cảm thấy có phần tệ là chính nước da của mụ lại tố cáo mụ dễ như thế.
Cuối cùng thì mụ nhìn lên, quay ghế lại để đối diện với tôi. Mắt mụ lấp lánh, nhưng không phải với nỗi buồn. Một cái gì khác, một cái gì gần như là hung dữ.
“Nghe này, chị Nora,” tôi nhẹ nhàng nói. “Tôi muốn xin lỗi vì...”
Mụ nói khẽ tới nỗi chỉ vừa đủ nghe. “Tôi khuyên anh nên lắng nghe, Adam. Hôm nay anh đã nói đủ rồi đấy.”
“Tôi thật ngốc...” tôi cất tiếng.
“Và nhận xét như thế khi có mặt Camilletti, Ngài Điểm Cốt Yếu, ông Biên Lợi Nhuận... Tôi đã phải tốn nhiều công sức kiểm soát thiệt hại với ông ta, tất cả là nhờ anh.”
“Lẽ ra tôi nên giữ mồm giữ miệng...”
“Anh định phá hoại ngầm tôi,” mụ nói. “Anh không biết mình đang đối đầu với cái gì đâu.”
“Nếu tôi đã biết trước là...” tôi cố chen vào.
“Đừng có mà nhắc tới điều đó. Phil Bohjalian đã kể với tôi ông ta đi qua khoang của anh và thấy anh đang phát sốt lên nghiên cứu về GoldDust trước buổi họp, trước khi anh ‘ứng khẩu’ bác bỏ công nghệ sống còn này một cách ‘tự nhiên’. Tôi cam đoan với anh điều này, Ngài Cassidy. Anh có thể nghĩ mình là thứ của nợ sáng giá nào đó vì thành tích của anh ở Wyatt, nhưng nếu tôi là anh, tôi sẽ không thoải mái quá ở Trion đâu. Nếu anh không lên xe buýt, anh sẽ bị chèn qua. Và hãy nhớ lời tôi: Tôi sẽ ở đằng sau bánh lái.”
Tôi đứng đó vài giây trong khi mụ chồm lấy tôi bằng cặp mắt trừng trợn của loài dã thú. Tôi nhìn xuống sàn, rồi lại ngẩng lên. “Tôi làm hỏng chuyện,” tôi nói. “Và tôi thực sự nợ chị một lời xin lỗi lớn. Rõ ràng là tôi đã đánh giá sai tình huống, và tôi có thể đã mang theo thành kiến cũ khi ở Wyatt, nhưng đó không phải là lời bào chữa. Chuyện này sẽ không lặp lại.”
“Sẽ không có cơ hội nào để chuyện đó lặp lại lần nữa,” mụ nói nhỏ. Mụ cứng rắn hơn bất cứ tay cảnh sát bang tàn bạo nào đã từng ra hiệu cho tôi tấp lại bên đường.
“Tôi hiểu,” tôi nói. “Và nếu có ai đó nói cho tôi biết là quyết định đã được lập, tôi hẳn đã im như thóc. Tôi nghĩ là tôi đã phỏng đoán rằng mọi nguời bên Trion này đã từng nghe chuyện Sony, thế thôi. Rất tiếc.”
“Sony?” mụ hỏi. “Ý anh là sao, ‘nghe chuyện Sony?’ ”
Bọn tình báo cạnh tranh của Wyatt đã bán cho lão mẩu tin lý thú này, và lão cho tôi để sử dụng trong giây phút chiến lược. Tôi cho rằng cứu cái mông mình khỏi cháy cũng được tính là giây phút chiến lược rồi. “Chị biết đấy, chỉ là họ đang vứt bỏ kế hoạch tích hợp GoldDust vào tất cả máy cầm tay đời mới của mình.”
“Tại sao?” mụ hỏi ngờ vực.
“Phiên bản mới nhất của Microsoft Office sẽ không hỗ trợ nó. Sony nhận định rằng nếu họ tích hợp GoldDust, họ sẽ mất hàng triệu đô la doanh số, vì vậy họ sẽ chọn BlackHawk, giao thức không dây cục bộ mà Office sẽ hỗ trợ.”
“Nó sẽ hỗ trợ?”
“Chắc chắn rồi.”
“Anh chắc về điều này không? Nguồn tin của anh hoàn toàn đáng tin cậy chứ?”
“Hoàn toàn, một trăm phần trăm. Tôi sẽ cược cả mạng sống của mình cho chuyện đó.”
“Anh cũng sẽ cược cả sự nghiệp của mình cho chuyện đó chứ?” Ánh mắt mụ khoan sâu vào tôi.
“Tôi nghĩ tôi vừa làm thế rồi.”
“Rất thú vị,” mụ nói. “Cực kỳ thú vị, Adam. Cảm ơn.”
21
Tối hôm đó tôi về muộn.
Tới bảy giờ ba mươi, tám giờ, nơi này đã vắng lặng. Ngay cả những kẻ tham công tiếc việc cố hữu cũng làm việc từ nhà vào buổi tối, đăng nhập lại vào mạng Trion, vì vậy không còn phải ở lại văn phòng muộn làm gì nữa. Tới chín giờ tối thì không còn thấy ai nữa. Đèn huỳnh quang trên tràn vẫn sáng, lung linh yếu ớt. Cửa sổ từ sàn tới trần trông tối đen từ vài góc; từ vài góc khác bạn thấy được thành phố trải dài trước mắt, ánh đèn lấp lánh, đèn pha xe kéo thành vệt dài câm lặng.
Tôi ngồi ở khoang của mình và bắt đầu tìm tòi trong website nội bộ của Trion.
Nếu Wyatt muốn biết ai đã được tuyển vào cho thứ “sản phẩm đặc biệt” được khởi động lúc nào đó trong vòng hai năm qua, tôi đoán là tôi nên thử tìm xem Trion đã tuyển ai vào trong hai năm gần đây. Đó là một khởi đầu cũng tạm được. Có đủ loại cách để tìm kiếm trong cơ sở dữ liệu nhân viên, nhưng vấn đề là tôi không thực sự biết rõ mình đang tìm ai hay cái gì.
Một lúc sau, tôi đoán ra: số của nhân viên. Mỗi nhân viên Trion đều có số. Số nhỏ có nghĩa là bạn được tuyển vào từ sớm. Vì vậy sau khi xem ngẫu nhiên một đống lý lịch nhân viên khác nhau, tôi bắt đầu thấy khoảng số cho những người bắt đầu làm việc ở đây từ hai năm trước. May thay (ít nhất cũng là cho mục đích của tôi), Trion đã trải qua một thời kỳ thực sự chậm chạp, nên không có quá nhiều người được nhận vào. Tôi lập ra được một danh sách với vài trăm nhân viên mới - những người mới vào trong vòng hai năm qua - và tải về tất cả tên và lý lịch của họ vào một đĩa CD. Ít nhất thì đó cũng là một khởi đầu.
Trion sở hữu một dịch vụ tin nhắn nhanh riêng gọi là InstaMail. Nó hoạt động hệt như Yahoo Messenger hay America Online’s Instant Messenger - bạn có thể giữ một “danh sách bạn bè” cho bạn biết được khi nào thì đồng nghiệp của mình đang trực tuyến và khi nào thì không. Tôi để ý thấy Nora Sommers đang đăng nhập. Mụ không ở đây nhưng lại trực tuyến, có nghĩa là mụ đang làm việc từ nhà.
Đây là điều tốt, bởi nó có nghĩa là giờ tôi có thể thử đột nhập vào văn phòng của mụ mà không phải sợ mụ xuất hiện không báo trước.
Ý nghĩ làm điều đó khiến bụng tôi thắt lại bằng nắm tay, nhưng tôi biết tôi không còn lựa chọn nào khác. Arnold Meacham muốn có kết quả rõ ràng, giống như ngày hôm qua vậy. Tôi biết Nora Sommers tham gia vào ban tiếp thị cho vài sản phẩm mới của Trion. Có lẽ mụ sẽ có thông tin về bất cứ sản phẩm hoặc công nghệ mới nào mà Trion đang bí mật phát triển. Ít nhất thì cũng đáng để xem xét kỹ.
Nơi nhiều khả năng nhất mụ sẽ lưu trữ những thông tin này là ở trong máy tính đặt ở văn phòng của mụ.
Tấm đồng trên cửa ghi N. SOMMERS. Tôi thu hết dũng khí để thử vặn nắm cửa. Nó bị khóa. Điều này chẳng hề làm tôi ngạc nhiên vì mụ giữ những hồ sơ nhân sự nhạy cảm ở đây. Tôi có thể nhìn qua tấm kính mỏng vào văn phòng mờ tối của mụ, rõ mồn một. Chẳng có gì nhiều trong đó, và dĩ nhiên là nó ngăn nắp thái quá.
Tôi biết phải có chìa khóa đâu đó tại bàn nhân viên hành chính của mụ. Nói đúng ra là người hỗ trợ hành chính cho mụ - một phụ nữ to lớn, cứng rắn, mông nở nang, khoảng ba mươi tuổi tên là Lisa McAuliffe - không phải chỉ làm cho mụ. Trên danh nghĩa, Lisa làm việc cho tất cả nhân sự của Nora, kể cả tôi. Chỉ có Phó Giám đốc là có nhân viên hành chính riêng; đó là chính sách của Trion. Nhưng điều này chỉ là hình thức mà thôi. Tôi đã ngộ ra được là Lisa McAuliffe làm việc cho Nora và căm ghét tất cả những ai cản đường mình.
Lisa cắt tóc rất ngắn, gần như là húi cua, và mặc quần yếm hay quần ống rộng. Bạn sẽ không nghĩ Nora, người luôn ăn mặc thời trang và nữ tính, lại có một nhân viên hành chính như Lisa McAuliffe. Nhưng Lisa trung thành dữ dội với Nora; cô ta chỉ dành vài nụ cười ít ỏi cho Nora và làm tất cả mọi người khác sợ chết khiếp.
Lisa là người yêu mèo. Khoang làm việc của cô ta bừa bộn hàng chục thứ liên quan tới mèo: những con búp bê Garfield, mô hình Catbert, những thứ đại loại như thế. Tôi nhìn quanh, không thấy ai và bắt đầu kéo ngăn kéo bàn ra. Sau vài phút tôi tìm thấy chùm chìa khóa đặt trong một hộp nhựa đựng kẹp giấy giấu dưới đất trồng của cái cây cảnh thích ứng được với ánh đèn huỳnh quang. Tôi hít sâu, lấy chùm chìa khóa - nó phải có tới hai mươi chiếc - và bắt đầu thử từng chìa một. Chìa thứ sáu mở được cửa vào phòng Nora.
Tôi bật đèn, ngồi xuống bàn Nora và bật máy tính của mụ lên.
Trong trường hợp có ai đó đột nhiên đi qua, tôi đã có chuẩn bị rồi. Arnold Meacham đã bơm cho tôi đầy chiến thuật - theo cách công kích, đặt cho họ các câu hỏi - nhưng có bao nhiêu khả năng một nhân viên lau dọn nói tiếng Bồ Đào Nha hoặc Tây Ban Nha và không nói được tiếng Anh sẽ nhận ra là tôi đang ở trong văn phòng của người khác chứ? Vậy là tôi tập trung vào nhiệm vụ trước mắt.
Nhiệm vụ trước mắt, không may thay, lại không dễ đến thế. TÊN NGƯỜI SỬ DỤNG/MẬT KHẨU chớp trên màn hình. Khốn kiếp thật. Được bảo vệ bằng mật khẩu: Lẽ ra tôi nên đoán trước. Tôi đánh vào NSOMMERS; đó là chuẩn tên. Rồi tôi gõ NSOMMERS vào ô mật khẩu. Tôi đã được dạy là bảy mươi phần trăm người dùng sẽ đặt mật khẩu giống như tên sử dụng.
Nhưng không phải là Nora.
Tôi cảm thấy rằng Nora không phải dạng người sẽ viết mật khẩu của mình vào một tờ ghi nhớ đặt trong thứ gì đó như ngăn kéo bàn, nhưng tôi vẫn phải chắc chắn. Tôi kiểm tra những nơi thường gặp - dưới tấm để chuột, dưới bàn phím, đằng sau máy, trong ngăn kéo bàn, nhưng không thấy gì cả. Vậy tôi sẽ phải tự xoay xở thôi.
Tôi thử chỉ cụm SOMMERS; tôi thử ngày sinh, bảy số đầu tiên và cuối cùng trong dãy số An sinh Xã hội của mụ, số nhân viên của mụ. Hàng loạt các loại kết hợp. TỪ CHỐI. Sau lần thử thứ mười, tôi ngừng lại. Mỗi lần thử đều bị ghi nhận, tôi phải đoán như thế. Mười lần thử đã là quá nhiều. Thường thì người ta không vụng về nhiều hơn hai hay ba lần.
Thật không hay.
Nhưng còn những cách khác để phá mật khẩu. Tôi đã trải qua hàng giờ đào tạo về chuyện đó, và họ cho tôi thứ thiết bị gần như đến thằng ngu cũng dùng được. Tôi chẳng phải là hacker hay gì cả, nhưng tôi cũng kha khá về máy tính - đủ để tôi gặp cả đống rắc rối hồi còn ở Wyatt, đúng không? - và thứ họ cho tôi dễ cài đặt tới lố bịch.
Về cơ bản thì nó là thiết bị với tên gọi “trình ghi nhận thao tác bàn phím”. Thứ này bí mật ghi lại mọi phím đã bấm mà người sử dụng máy thực hiện.
Nó có thể là một phần mềm như chương trình máy tính, hoặc là thiết bị phần cứng. Nhưng bạn phải cẩn thận khi cài đặt các phiên bản phần mềm, vì bạn sẽ không bao giờ biết được hệ thống mạng của Tập đoàn được kiểm soát chặt chẽ như thế nào; họ có thể sẽ phát hiện ra. Vì vậy Arnold Meacham bảo tôi phải dùng thiết bị này.
Hắn đã cho tôi một loạt những thứ đồ chơi bé nhỏ. Một cái là đầu nối cáp tí hon được gắn vào giữa bàn phím và máy để bàn. Bạn sẽ không bao giờ để ý thấy nó. Nó có một con chip gắn vào cho phép ghi nhận và lưu trữ tới hai triệu phím bấm. Sau đó bạn chỉ cần quay lại gỡ nó ra khỏi máy tính đích thế là bạn sẽ có bản ghi của mọi thứ mà người ta đã gõ vào.
Trong tổng cộng khoảng mười giây, tôi rút bàn phím của Nora ra, gắn cái KeyGhost bé nhỏ này vào, rồi lại cắm trở lại máy tính. Mụ sẽ không bao giờ thấy, và vài ngày nữa tôi sẽ trở lại để lấy nó.
Nhưng tôi sẽ không chịu trắng tay rời khỏi văn phòng của mụ. Tôi nhìn qua vài thứ trên bàn. Không có gì nhiều nhặn ở đây. Tôi tìm thấy một bản nháp thư điện tử gửi tới đội Maestro mụ vẫn chưa gửi đi. “Nghiên cứu thị trường mới nhất của tôi,” mụ viết, “cho thấy rằng dù GoldDust rõ ràng ưu việt, tuy nhiên Microsoft Office sẽ hỗ trợ công nghệ không dây BlackHawk. Dù điều này có thể sẽ gây phiền hà cho các kỹ sư xuất sắc của chúng ta, tôi chắc chắn mọi người đều đồng ý rằng tốt nhất là không bơi ngược dòng cơn sóng Microsoft...”
Làm nhanh lắm, Nora, tôi nghĩ. Tôi rất hy vọng Wyatt nói đúng.
Cũng có tủ đựng hồ sơ phải xem qua. Thậm chí ở một nơi công nghệ cao như Trion, những hồ sơ quan trọng cũng hầu như luôn luôn ở dạng giấy, dù là bản gốc hay bản sao lưu. Đây là sự thật lớn lao về thứ được gọi là văn phòng không giấy tờ: tất cả chúng ta càng sử dụng máy tính nhiều bao nhiêu, chúng ta càng phải dùng nhiều tập giấy sao chép bấy nhiêu. Tôi mở tủ đầu tiên mình bước đến, hóa ra nó lại chẳng phải là tủ hồ sơ gì cả mà là tủ sách khép kín. Tôi tự hỏi, tại sao lại có vài cuốn sách để ở đây, kín đáo như thế? Rồi tôi nhìn kỹ những cái tít và tôi kêu lớn thành tiếng.
Mụ có hàng dãy hàng dãy sách với tựa đề như Những phụ nữ chạy cùng bầy sói, Sức mạnh của phụ nữ và Đấu như đàn ông, Thắng như phụ nữ. Rồi những nhan đề như Tại sao gái ngoan không vượt được lên... nhưng gái mạnh bạo thì có thể và Bảy bí mật của những người phụ nữ thành đạt và Mười một điều răn của những người phụ nữ cực kỳ thành đạt.
Nora, Nora, tôi nghĩ. Tiến lên đi, cô gái.
Bốn tủ tài liệu của mụ không khóa, và tôi xem chúng trước, lật qua những nội dung buồn chán và tẻ nhạt: đánh giá quyền chọn mua cổ phiếu, đặc tả sản phẩm, tài liệu phát triển sản phẩm, tài chính... Mụ tài liệu hóa dường như tất cả mọi thứ, có lẽ in sao mọi bức thư mụ gửi hoặc nhận được. Tôi biết món hay hẳn phải nằm trong các tủ bị khóa. Chứ không chúng bị khóa làm gì chứ?
Tôi nhanh chóng xác định chiếc chìa khóa nhỏ cho tủ hồ sơ trên chùm chìa khóa của Lisa. Trong những ngăn tủ bị khóa, tôi tìm thấy khá nhiều hồ sơ nhân sự của cấp dưới, có lẽ đọc chúng sẽ thú vị lắm nếu tôi có đủ thời gian. Các bản ghi tài chính cá nhân cho thấy mụ đã làm ở Trion một thời gian dài, nhiều quyền chọn mua cổ phiếu của mụ đã sinh lời, và mụ thường xuyên mua bán, vì vậy tổng giá trị mụ có lên tới bảy con số. Tôi tìm thấy hồ sơ của mình, nó mỏng và không ghi gì đáng sợ. Chẳng có gì đáng quan tâm.
Rồi tôi xem kỹ hơn và bắt gặp vài mẩu giấy, bản in các email mà Nora nhận được từ vị cấp cao nào đó của Trion. Theo những gì tôi thấy thì một người phụ nữ tên là Alana Jennings, người trước đây giữ vị trí của tôi, đã đột ngột bị chuyển tới nơi khác trong công ty. Và Nora tức giận - thực ra là giận dữ tới mức mụ đẩy lời phàn nàn leo tít lên chuỗi thức ăn tới tận mức Phó Chủ tịch cấp cao, một nước đi táo bạo:
TIÊU ĐỀ: Phản hồi: Tái bổ nhiệm vị trí cho Alana Jennings
NGÀY: Thứ Ba, ngày 8 tháng Tư, 8:42:19 Sáng
TỪ: GAllred
ĐẾN: NSommers
Nora,
Tôi đã nhận được vài lá thư của chị phản đối việc chuyển ALANA JENNINGS tới bộ phận khác trong công ty. Tôi hiểu chị lo lắng, vì Alana là nhân viên được đánh giá cao nhất của chị cũng như là một cá nhân đáng giá trong đội.
Tuy vậy, rất tiếc là cấp cao nhất đã gạt bỏ phản đối của chị. Các kỹ năng của Alana cần gấp cho Dự án AURORA.
Tôi xin đảm bảo với chị là chị sẽ không mất số đầu Nhân sự hiện giờ. Chị đã được duyệt quyết định bổ sung nhân sự để có thể lấp vị trí của Alana với bất cứ nhân viên nào có mong muốn và đủ tiêu chuẩn của công ty.
Hãy thông báo cho tôi nếu tôi có thể giúp chị được nhiều hơn.
Xin chúc điều tốt đẹp nhất.
Greg Allred
Phó Chủ tịch cấp cao, Đơn vị Kinh Doanh Nghiên cứu Cao cấp
Hệ thống Trion
Giúp bạn Thay đổi Tương lai
Và rồi hai ngày sau lại một bức thư điện tử nữa:
TIÊU ĐỀ: Phản hồi: Tái bổ nhiệm vị trí cho Alana Jennings
NGÀY: Thứ Năm, ngày 10 tháng Tư, 2:13:07 Chiều
TỪ: GAllred
ĐẾN: NSommers
Nora,
Về AURORA, tôi rất tiếc nhưng tôi không có quyền tiết lộ tính chất chính xác của dự án này, trừ việc nói với chị rằng nó là nhiệm vụ then chốt cho tương lai của Trion. Vì AURORA là dự án nghiên cứu phát triển mật được xếp ở mức cực kỳ nhạy cảm, tôi kính mong chị không tiếp tục vấn đề này thêm nữa.
Tuy nói vậy, tôi hiểu sự khó khăn của chị trong việc lấp đầy vị trí của Alana bằng nhân sự nội bộ đủ tiêu chuẩn. Vì vậy tôi rất mừng được báo cho chị rằng ngay bây giờ chị được phép bỏ qua quy định trên toàn công ty về việc cấm tuyển từ bên ngoài. Vị trí này có thể được bổ nhiệm một “viên đạn bạc”, cho phép chị tuyển người từ bên ngoài Trion. Tôi tin và hy vọng rằng điều này sẽ làm dịu sự lo lắng của chị.
Nếu có bất cứ câu hỏi nào, đừng ngần ngại viết hoặc gọi cho tôi.
Xin chúc điều tốt đẹp nhất.
Greg Allred
Phó Chủ tịch cấp cao, Đơn vị Kinh Doanh Nghiên cứu Cao cấp
Hệ thống Trion
Giúp bạn Thay đổi Tương lai
Chà. Đột nhiên mọi việc bắt đầu hiểu được. Tôi được tuyển để thay thế cho cô nàng Alana này, người đã được chuyển tới thứ được gọi là Dự án AURORA.
Dự án AURORA rõ ràng là chuyện tối mật - sản phẩm bí mật. Tôi đã tìm ra nó rồi.
Lôi những lá thư này ra máy photocopy có vẻ không sáng suốt lắm, vì vậy tôi lấy một tờ từ tệp giấy lề màu vàng trong tủ chứa đồ của Nora và bắt đầu ghi chép.
Tôi không biết mình đã ngồi viết trên sàn trải thảm trong văn phòng mụ bao lâu, nhưng hẳn phải tới bốn hay năm phút. Và đột nhiên tôi nhận thấy có thứ gì đó trong tầm mắt của mình. Tôi liếc nhìn lên và thấy một nhân viên bảo vệ đứng ở chỗ cửa mở quan sát tôi.
Trion không thuê bảo vệ chuyên nghiệp; họ có nhân viên an ninh riêng, những người mặc áo hải quân cộc tay ngoài sơ mi trắng, trông như cảnh sát hay nhân viên nhà thờ. Gã này cao, da đen lực lưỡng, tóc bạc và vô khối nốt ruồi như tàn nhang trên má. Hắn có đôi mắt to, mi mắt trĩu xuống như giống chó baxet và đeo kính gọng mỏng. Hắn đứng đó nhìn tôi.
Dù đã bỏ ra bao nhiêu thời gian tập đi tập lại trong đầu mình sẽ nói gì nếu như bị bắt, tôi vẫn đờ người ra.
“Tôi thấy anh có gì rồi nhé,” tên bảo vệ nói. Hắn không nhìn vào tôi; hắn nhìn thẳng về hướng bàn Nora. Vào cái máy tính - thiết bị KeyGhost? Không, Chúa ơi, không.
“Xin lỗi?”
“Tôi thấy anh có gì rồi. Chết tiệt, phải. Tôi biết mà.”
Tôi rối cả lên, tim đập loạn nhịp. Chúa Jesus toàn năng, tôi nghĩ: Thế là xong.
22
Hắn chớp mắt và tiếp tục trân trối. Có phải hắn đã thấy tôi cài đặt thiết bị đó không? Và rồi một ý nghĩ khác cũng phát ốm như thế nắm lấy tôi: có phải hắn đã để ý thấy tên của Nora trên cửa? Chẳng lẽ hắn lại không tự hỏi tại sao một gã đàn ông lại ở trong phòng làm việc của phụ nữ mà lật giở hồ sơ?
Tôi liếc lên bảng tên trên cánh cửa mở ngay phía sau tên bảo vệ. Nó ghi N. SOMMERS. N. SOMMERS có thể là bất cứ ai, nam cũng như nữ. Nhưng biết đâu đấy, có khi hắn đã đi tuần qua những hành lang này mòn ra rồi, và hắn với Nora là chỗ quen biết cũ.
Tên bảo vệ vẫn đứng ở cửa, chặn lối ra. Giờ thì tôi biết làm cái quái gì đây? Tôi có thể thử bỏ chạy, nhưng đầu tiên tôi phải vượt được qua hắn đã, cũng có nghĩa là tôi phải bổ nhào vào và vật hắn xuống sàn, gạt hắn ra khỏi đường. Hắn to lớn nhưng đã già, chắc không còn nhanh nhẹn; có lẽ tôi sẽ làm được. Vậy thì chúng ta đang nói gì đây, tấn công và hành hung? Với một lão già? Chúa ơi.
Tôi nghĩ thật nhanh. Tôi có nên nói mình là người mới không? Cả loạt giải thích lướt qua đầu: Tôi là trợ lý mới của Nora Sommers. Tôi báo cáo trực tiếp lên mụ - xem nào, tôi đang - làm muộn theo chỉ thị của mụ. Gã này thì biết gì chứ? Hắn chỉ là một tên bảo vệ đáng nguyền rủa mà thôi.
Hắn bước vài bước vào văn phòng và lắc đầu. “Trời, thế mà tôi nghĩ mình cái gì cũng đã thấy rồi chứ.”
“Nghe này, chúng tôi có một dự án lớn hết hạn vào sáng mai...” tôi lên tiếng, ra vẻ bị xúc phạm.
“Anh có một chiếc Bullitt. Đúng là Bullitt thật.”
Rồi tôi thấy cái hắn đang nhìn và bước tới gần. Đó là một tấm ảnh màu lớn trong khung bạc treo trên tường. Bức ảnh chụp chiếc xe cơ bắp cổ điển được phục chế rất đẹp. Hắn hướng tới nó với vẻ mê mẩn, như thể hắn đang đi về phía Chiếc Rương Thánh Tích. “Khỉ thật, chà, đây đúng là một con Mustang GT ba chín mươi ra năm 1968.” Hắn thở như thể vừa được thấy dung nhan Chúa.
Adrenaline tan đi và từ các lỗ chân lông thoát ra sự nhẹ nhõm. Lạy Chúa.
“Đúng rồi,” tôi tự hào nói. “Rất tốt.”
“Trời, nhìn xem chiếc ‘Stang này. Con ngựa hoang này là một chiếc GT xuất xưởng?”
Tôi thì biết cái quái gì được? Tôi còn không phân biệt nổi Mustang với Dodge Dart nữa. Với tôi mà nói thì đó hẳn có thể là ảnh của một chiếc AMC Gremlin. “Chắc chắn rồi.”
“Ngoài kia nhiều đồ giả lắm, anh biết đấy. Anh đã bao giờ kiểm tra dưới đệm ghế sau chưa, xem nó có tấm kim loại phụ không, đồ bổ sung cho ống xả đôi ấy?”
“À, rồi,” tôi ung dung nói. Tôi đứng dậy và chìa tay ra. “Nick Sommers.”
Hắn bắt tay hờ hững, bàn tay to bè bao lấy tay tôi. “Luther Stafford,” hắn nói. “Trước đây tôi chưa bao giờ thấy anh quanh đây.”
“Ờ, tôi chẳng bao giờ ở đây buổi đêm cả. Cái dự án chết tiệt này - luôn luôn là ‘Chúng tôi cần nó trước chín giờ sáng, gấp lắm đấy’, cứ nhanh lên và đợi đi.” Tôi cố tỏ ra tự nhiên. “Thật vui là tôi không phải người duy nhất làm khuya.”
Nhưng hắn không chịu thôi chuyện cái xe. “Chà, tôi không nghĩ mình từng thấy một chiếc mui dốc thẳng về phía sau ở Highland Green. Ý tôi là trừ phi thấy trong phim. Nó trông giống hệt cái mà diễn viên Steve McQueen đã sử dụng để đuổi theo chiếc Dodge Charger màu đen hắc ám ra khỏi đường và phi vào trạm xăng. Mâm xe văng khắp nơi.” Hắn cười lặng lẽ, vui vẻ, khàn khàn kiểu như vừa uống whiskey vừa hút thuốc. “Bullitt. Phim tôi thích nhất. Tôi hẳn phải xem nó cả nghìn lần rồi.”
“Ờ,” tôi nói. “Tôi cũng vậy.”
Hắn tiến gần hơn. Bất chợt tôi nhận ra có bức tượng vàng lớn trên giá cạnh tấm ảnh khung bạc. Khắc trên đế tượng là dòng chữ màu đen to đùng ghi: NGƯỜI PHỤ NỮ CỦA NĂM, 1999. DÀNH CHO NORA SOMMERS. Tôi vội vã bước tới sau bàn, lấy thân che không cho tên bảo vệ thấy giải thưởng, làm ra vẻ tôi cũng đang quan sát kỹ tấm ảnh.
“Có cánh gió sau và bao nhiêu thứ nữa,” hắn tiếp tục. “Ống xả đôi hả?”
“Ồ, phải.”
“Có cả viền gợn chứ?”
“Chắc chắn rồi.”
Hắn lại lắc đầu. “Chà. Anh tự phục chế nó à?”
“Không, giá mà tôi có thời gian.”
Hắn lại cười, điệu cười trầm vang. “Tôi hiểu ý anh.”
“Tôi mua nó từ một người trước để nó trong nhà kho.”
“Con ngựa hoang này ba trăm hai mươi mã lực?”
“Phải,” tôi nói như thể mình biết lắm.
“Hãy nhìn cái mui có đèn xi nhan trên em này xem. Tôi từng có một chiếc mui cứng 68, nhưng tôi phải bỏ nó đi. Vợ tôi bắt thế sau khi chúng tôi có con đầu lòng. Tôi vẫn thèm khát nó mãi tới bây giờ. Nhưng chiếc GT Bullitt Mustang mới cứng kia thì tôi thậm chí sẽ không dám mơ tới, không đâu.”
Tôi lắc đầu. “Không thể nào.” Tôi chẳng biết hắn đang nói về cái quái gì. Bộ ai trong cái công ty này cũng điên lên vì ô tô sao?
“Thứ lỗi nếu tôi nói sai, nhưng có vẻ anh có lốp GR cỡ bảy mươi trên vành Torque Thrust của Mỹ cỡ mười lăm trên bảy, đúng không?”
Trời ạ, chúng ta có thể thôi chủ đề này đi được không? “Thật ra, Luther à, tôi chẳng biết cái gì về mấy cái xe Mustang. Tôi thậm chí chẳng đáng có một chiếc. Vợ tôi mua cho tôi làm quà sinh nhật. Dĩ nhiên tôi mới là người phải trả tiền vay trong bảy mươi lăm năm tới.”
Hắn lại cười. “Tôi biết rồi. Trước tôi cũng thế.” Tôi thấy hắn nhìn xuống bàn và nhận ra hắn đang xem cái gì.
Đó là một chiếc phong bì giấy thô trên đề tên Nora bằng chữ hoa to đậm, viết bằng bút đánh dấu Sharpie mực đỏ. NORA SOMMERS. Tôi nhìn quanh bàn tìm thứ gì đó kéo lên nó, che nó đi, may ra hắn chưa kịp nhìn thấy cái tên đó, nhưng Nora giữ bàn mình không chút bừa bộn. Cố tỏ ra tự nhiên, tôi giật lấy một trang trên tập giấy ghi chép và yên lặng xé nó ra, để nó rơi xuống mặt bàn và hất nó lên phong bì bằng tay trái. Thật bình tĩnh, Adam. Tờ giấy vàng đã có vài chữ viết tay của tôi, nhưng người khác có nhìn cũng sẽ thấy chúng là vô nghĩa.
“Nora Sommers là ai?” hắn hỏi.
“À, vợ tôi ấy mà.”
“Nick và Nora à?” Hắn cười nắc nẻ.
“Ờ, lúc nào chúng tôi cũng bị cười thế.” Tôi cười ngoác miệng. “Vì thế mà tôi mới lấy cô ấy. Mà giờ tôi phải quay lại với các hồ sơ này đây, không thì tôi ở lại cả đêm mất. Rất vui được gặp anh, Luther.”
“Tôi cũng vậy, Nick.”
Tới lúc tên bảo vệ bỏ đi thì tôi căng thẳng tới mức không làm được gì ngoài sao chép nốt các lá thư, rồi tắt đèn và khóa cửa văn phòng Nora lại. Khi tôi quay đi trả chùm chìa khóa lại lô của Lisa McAuliffe, tôi thấy có người đang đi cách đó không xa lắm. Tôi đoán chắc lại là Luther. Hắn muốn gì chứ, nói tiếp chuyện Mustang? Tất cả những gì tôi muốn là thả chìa khóa lại mà không bị ai thấy, và rồi cuốn xéo khỏi đây.
Nhưng đó không phải là Luther; đó là một gã bụng phệ với kính gọng sừng và tóc cột kiểu đuôi ngựa.
Người mà tôi không mảy may nghĩ sẽ thấy tại nơi làm việc lúc mười giờ đêm, nhưng nói gì thì nói, bọn kỹ sư cũng hay làm việc vào những giờ kỳ quặc.
Noah Mordden.
Gã có thấy tôi khóa cửa phòng Nora lại không, hay thậm chí là ở trong đó? Hay mắt gã không tinh đến thế? Có lẽ gã còn chẳng để ý; biết đâu gã chỉ ở trong thế giới riêng - nhưng gã làm gì ở đây?
Gã không nói gì, không chào tôi. Tôi thậm chí không chắc gã nhận ra mình đang ở đây nữa. Nhưng tôi là người duy nhất ở gần, và gã không mù.
Gã rẽ vào lối đi giữa các lô tiếp theo và để một chiếc cặp giấy xuống lô của ai đó. Giả vờ tự nhiên, tôi đi qua lô của Lisa và thả chùm chìa khóa lại xuống cái cây, ngay trong khoảng đất mà tôi đã tìm thấy nó, một cử chỉ nhanh chóng, rồi tôi tiếp tục đi.
Tôi đi được nửa đường tới thang máy thì nghe thấy tiếng gọi, “Cassidy.”
Tôi quay lại.
“Thế mà anh cứ ngỡ chỉ có kỹ sư mới là sinh vật ăn đêm chứ.”
“Tôi chỉ cố bắt kịp thôi,” tôi đáp một câu chán ngắt.
“Anh hiểu,” hắn nói. Cách hắn nói khiến tôi lạnh sống lưng. Rồi hắn hỏi, “Chuyện gì vậy?”
“Xin lỗi?”
“Cậu bị cuốn vào chuyện gì vậy?”
“Tôi không chắc là mình hiểu anh nói gì,” tôi nói, tim đập thình thịch.
“Cố mà nhớ ra điều đó.”
“Anh nói lại được không?”
Nhưng Mordden đã bước về phía thang máy, và gã không trả lời.
Chú thích
[9] Định dạng video được dùng vào thập niên 70, sau đó bị thay thể hoàn toàn bằng định dạng VHS.

Chương trước Chương sau