Những chiếc đồng hồ treo tường - Chương 01

Những chiếc đồng hồ treo tường - Chương 01

LỜI KỂ CỦA COLIN LAMB

Ngày đăng
Tổng cộng 29 hồi
Đánh giá 9.1/10 với 25620 lượt xem

Hôm đó là ngày 9 tháng Chín, một buổi trưa giống như mọi buổi trưa khác. Không một người nào liên quan đến những sự kiện trong ngày hôm đó lại dám khoe rằng họ đã linh cảm thấy một điều gì đó. (Họa chăng chỉ có bà Parker, vốn rất say mê nghiên cứu về thuật đoán hậu vận, luôn tuyên bố rằng bà ta đã biết từ trước, tất nhiên là bà tuyên bố như vậy sau khi sự việc đã xảy ra, nhưng bà lại ở số nhà 47 phố Wibraham Crescent, cách rất xa ngôi nhà số 19 này, cho nên bà có nói bà đã biết trước cũng bằng thừa.)
Trong phòng làm việc của Trung tâm Cavendish, vào buổi trưa ngày 9 tháng Chín đó, không khí ảm đạm một cách đặc biệt. Đây là một doanh nghiệp nhỏ, chuyên làm dịch vụ thư ký và đánh máy, do bà Martindale làm Giám đốc. vẫn tiếng chuông điện thoại reo, tiếng lách tách của các máy chữ. Hoạt động tại đây diễn ra đúng như thường lệ, tẻ nhạt và đơn điệu vô cùng.
Vào 2h35 chiều, đèn đỏ trên máy truyền tin trong phòng nhấp nháy, ngọn đèn nối với phòng giấy của Giám đốc, bà Martindale. Cô thư ký Edna lấy lưỡi đẩy vội chiếc kẹo caramen ngậm trong miệng vào mặt trong chiếc răng nanh, hỏi bằng cái giọng quen thuộc của cô: hơi hổn hển và như tiếng mũi:
- Có tôi đây, thưa bà Martindale?
- Tôi đã nhắc cô bao nhiêu lần rồi, đừng nói vào máy bằng cái giọng ấy. Sao hễ nói là cứ phải vừa nói vừa thở phì phù vào máy như vậy?
- Bà tha lỗi, thưa bà Giám đốc.
- Đấy, nói thế có phải dễ nghe không. Cô chỉ cần chú ý một chút là được thôi mà. Bảo cô Sheila vào gặp tôi ngay.
- Thưa bà Martindale, Sheila đi ăn trưa chưa về ạ.
- Vậy sao? - bà liếc mắt nhìn đồng hồ treo tường. Muộn mất đúng sáu phút. Gần đây, con Sheila này thoải mái quá đấy. - Vậy khi nào Sheila về, cô bảo sang gặp tôi nhé.
- Vâng, thưa bà Giám đốc.
Sau khi lấy lưỡi đẩy chiếc kẹo caramen trở lại như bình thường, Edna vừa nhấm nháp chất ngọt của chiếc kẹo đang tan dần trong miệng, vừa tiếp tục đánh máy cuốn tiểu thuyết Ái tình Trần Trụi của tác giả Arnold Levin. Những đoạn tả cảnh làm tình sống sượng của nhà văn rẻ tiền này không làm cô xúc động chút nào, cũng như những độc giả khác của ông ta, mặc dù ông ta cố chọn những câu chữ sống sượng nhất. Edna vừa đánh máy vừa thầm nghĩ, không có gì tồi tệ bằng một cuốn truyện khiêu dâm tồi! Bất chấp hình vẽ trên bìa hấp dẫn, bất chấp tên truyện nghe đầy hứa hẹn, sách của ông Levin này mỗi ngày một bán ế. Và đây lại là một bản thảo mới của ông ta, không có gì có thể tồi tệ hơn.
Cửa phòng nhè nhẹ mở, cô thư ký Sheila cố nín hơi thở hổn hển, rón rén bước vào.
- Hùm cái vừa gọi mày đấy, - Edna nói.
Sheila nhăn mặt.
- Khỉ gió! Đúng vào hôm mình về muộn.
Vuốt cho gọn mái tóc, Sheila vớ cuốn sổ và chiếc bút chì chạy vào gõ cửa phòng Giám đốc. Phòng này bố trí nằm bên trong, thật ra chỉ là một phần của gian phòng lớn, được ngăn riêng ra bằng gỗ lồng kính mờ.
Ngồi sau bàn giấy, bà Martindale ngước mắt lên. Ngoài bốn mươi tuổi, bà ta bộc lộ rõ là một phụ nữ
năng động. Mái tóc màu hung cắt ngắn khiến bà có biệt hiệu là “Hùm cái”.
- Cô về trễ đấy, Sheila, - bà ta nói.
- Bà tha lỗi, thưa bà Giám đổic. Xe buýt tôi đi bị tắc đường mất một lúc.
- Giờ này có phải giờ cao điểm đâu mà tắc đường được? Vả lại cô phải tính cách chứ, - bà ta xem lịch bàn. - Một khách hàng tên là bà Pebmarsh gọi điện thoại đến. Bà ta cần một thư ký đánh máy đến nhà bà ta vào 3 giờ chiều nay, và bà đề nghị đích danh cô. Cô quen bà ta à? Đã có lần đánh máy cho bà ta chăng?
- Tôi không nhớ, thưa bà Giám đốc. Nhưng nếu có thì chắc cũng phải lâu lắm rồi.
- Bà Pebmarsh này ở số nhà 19 phố Wilbraham Crescent - bà Giám đốc dừng lại, ngước nhìn cô thư ký đánh máy như dò hỏi.
Sheila lắc đầu:
- Vậy thì tôi hoàn toàn không nhớ.
Bà Martindale nhìn đồng hồ treo trên tường.
- Cô thừa sức đi đến đó trước ba giờ. Cô không có hẹn với khách hàng nào chiều nay chứ? - bà ta lại nhìn vào cuốn lịch sổ. - Mà có đấy, năm giờ chiều nay cô còn phải đến làm việc với Giáo sư Purdy ở Khách sạn Curlew. Chắc chắn cô sẽ xong việc ỏ nhà bà Pebmarsh và kịp đến khách sạn Curlewthôi, tôi tin là như thế. Trường hợp cô không về kịp, tôi sẽ cử cô Janet đến gặp ông Giáo sư thay cô.
Bà Giám đốc làm một cử chỉ, ý bảo thế là xong.
Sheila quay ra phòng nhân viên.
- Chuyện gì đấy, Sheila?
- Vẫn chuyện thông thường. Một mụ già chờ mình ở phố Wilbraham Crescent. Còn vị Giáo sư kia làm tình làm tội mình với đủ các thuật ngữ khảo cổ học của ông ta. Toàn những công việc ngán ngẩm. Mong sao có một công việc nào lý thú một chút.
Cửa phòng Giám đốc lại mở, bà Martindale bước ra.
- Sheila, tôi dặn thêm. Nếu chẳng may bà Pebmarsh đi vắng thì cô cứ vào. Bà cụ không khóa cửa đâu. Cô cứ tự vào, ngồi chờ bà cụ ở phòng bên phải, ngay sát cửa ra vào. Có phải ghi vào sổ không?
- Không cần, thưa bà Martindale. Tôi nhớ.
Bà Giám đốc vào khuất, Edna kín đáo lấy dưới gầm ghế ra chiếc giầy bị gẫy gót.
- Lạy Chúa, mình làm cách nào về nhà được đây?
Cô thư ký rên rỉ.
- Đừng lo, rồi sẽ có cách, - một cô nhân viên đi ngang qua, đứng lại nhìn, nói, rồi đi tiếp.
Edna thở dài, cho một tờ giấy mới vào máy, vừa gõ lên bàn phím vừa lẩm bẩm đọc: “Chàng bỗng thấy cháy lên một ngọn lửa thèm khát. Hai tay run rẩy, chàng giật ra tấm vải mỏng phủ lên cặp vú nàng rồi đè nàng nằm ngửa trên li văng...”
- Con khỉ! - Edna rủa một tiếng rồi vớ chiếc tẩy.
Sheila xách xắc tay, bước ra cửa.
°
° °
Xây từ đầu thế kỷ, phố Wilbraham Crescenttheo một kiểu kiến trúc vòng cung oái oăm, khiến người đi từ đầu phố vào không nhìn thấy được những biển số nhà ở đầu, nhưng khi vào đến bên trong thì lại rất khó thấy được những biển số nhà phía cuối. Nhà nào cũng xây theo kiểu biệt thự, xung quanh là vườn cây. Phía trước nhà nào cũng có bao lơn bằng sắt uốn hết sức cầu kỳ, thấy rõ chủ nhân là những người giầu có huênh hoang. Phía trước ngôi nhà nào cũng có hàng rào và cổng bằng sắt.
Ngôi nhà số 19 không có gì đặc biệt: cũng tấm ri-đô trắng tinh, cũng nắm đấm trên cánh cửa bằng đồng sáng loáng, cũng có một lối đi hai bên trồng những khóm hoa tường vi, chạy từ cổng sắt bên ngoài vào bậc thềm lên nhà.
Đẩy cánh cổng sắt, Sheila theo lối đi trồng tường vi, bước lên bậc thềm, đến cánh cửa gỗ, bấm chuông. Không thấy ai trả lòi. Đợi một lát, cô xoay quả đấm cửa. Đúng như bà Martindale dặn, cửa không khóa. Sheila bước vào bên trong. Vào đến nơi cô thấy cánh cửa bên phải hé mở. Cô gõ, chờ một lát không thấy gì, bèn bước vào phòng khách nhỏ ấm cúng, bầy quá nhiều các loại đồ mỹ nghệ, toàn những thứ cổ lỗ, không thích hợp với thời nay. Tuy nhiên phòng khách nhỏ này có một chi tiết lạ: rất nhiều đồng hồ, cả trên tường, cả trên mặt tủ. Một chiếc đồng hồ mẹ to tướng kêu tích-tắc treo ở góc tường. Một chiếc đồng hồ bằng sứ trên lò sưởi. Một chiếc nữa bên trên bàn giấy bằng bạc. Cạnh đấy lại một chiếc vỏ gỗ màu đỏ tươi. Gần cửa sổ một chiếc nhỏ nữa, bốn góc bịt da thuộc, có dòng chữ mạ vàng “Rosemary” hơi bị mờ do thời gian.
Sheila ngạc nhiên thấy chiếc đồng hồ trên bàn giấy chỉ bốn giờ kém mười. Cô liếc nhìn sang những đồng hồ khác: tất cả đều chỉ đúng như thế: bốn giờ kém mười. Sao lại thế được nhỉ?
Đột nhiên, một tiếng “cạch” làm Sheila giật bắn người. Cánh cửa nhỏ trên một chiếc đồng hồ treo tường mở ra, một con chim họa mi thò đầu, ngửa cổ trịnh trọng hót: “Cúc cu - cúc cu - cúc cu”, ba tiếng theo ba thanh âm cao thấp khác nhau. Liền sau đó, lại một tiếng “cách” và con chim thụt cổ vào, cánh cửa nhỏ khép lại như cũ.
Sheila bật cười, định di vòng ra ngồi xuống chiếc đi văng. Đột nhiên cô giật mình: một người đàn ông nằm thẳng đuỗn dưới sàn, hai mắt mở to nhưng trông đờ đẫn, giống như một người mù, rõ ràng không nhìn thấy gì. Trên bộ vét có một vết loang màu sẫm. Một cách vô ý thức, Sheila cúi xuống, sờ má và bàn tay ông ta thấy lạnh toát. Rồi cô chạm tay vào vết loang ẩm. Vừa đụng đến, Sheila vội rút bàn tay lại, hai mắt trợn tròn kinh hoàng.
Vừa lúc đó, có tiếng mở cánh cổng sắt bên ngoài làm Sheila quay đầu lại. Trên lối đi, một phụ nữ đang bước nhanh. Cô gái nuốt nước bọt, thấy cổ họng khô khốc. Cô đứng sững, toàn thân như cứng lại, không nhúc nhích mà cũng không kêu lên được... cặp mắt bất động.
Cửa mở, một bà có tuổi, vóc ngưòi to lớn, xách làn đi chợ, bước vào. Mái tóc hoa râm chải sơ sài túm lại sau gáy, trùm xuống hai thái dương. Bà già hướng cặp mắt xanh biếc nhìn thẳng vào Sheila, nhưng không có vẻ bà ta nhìn thấy cô.
Sheila thốt lên một tiếng kêu khẽ. Bà có cặp mắt xanh biếc kia tiến về phía cô.
- Ai đấy? - bà ta hỏi to.
- Tôi... Tôi là... Sheila ấp úng.
Bà ta vòng qua chiếc đi văng đi về phía Sheila. Thấy vậy, cô vội hét lên:
- Đừng... Bà đừng đi nữa! Bà giẫm lên ông ta mất... mà ông ấy chết rồi.
Như cảnh sát đã biết, ngày 9 tháng Chín, vào 14 giờ 59 phút, tôi đi dọc theo phố Wilbraham Crescent theo hướng Đông. Đấy là lần đầu tiên tôi đến đây, và thú thật, phố Wilbraham Crescent này làm tôi hoàn toàn mất phương hướng.
Tôi đang thẩm tra lại một trong những linh cảm của tôi, vì linh cảm ấy rất lờ mờ cho nên tội càng cố muốn biết xem nó có đúng hay không.
Tôi tìm số nhà 61, liệu có số nhà đó không? Tôi bắt đầu đi tìm nhà số 1 đến số 28, thì phố Wilbraham Crescent bị một phố lớn cắt ngang, tên phố lớn đó là đại lộ Albany. Tôi bèn thử đi ngược lại. Bên này phố, chỉ có một bức tường rào chạy dài, trong là những tòa nhà chung cư, nhiều tầng bằng bê tông, cao vút lên tận trời xanh. Không thấy lối vào nhà để lên cầu thang, chắc ở mặt phố phía bên kia. Vậy là đi theo hè bên này không ích gì.
Vừa đi, tôi vừa kiểm tra các nhà số 24, 23, 22, 21. Biệt thự Diana,hẳn đây là số 21. Một con mèo ngồi trên một cột hàng rào, đang đưa chân lên xoa mặt. Rồi tôi đi đến số nhà 19...
Đột nhiên cánh cửa ngôi nhà số 19 bật mở, một người bên trong lao ra như một quả trái phá, kèm theo một tiếng rú man dại, không ra tiếng rú của con người. Một cô gái trẻ lao ra phía cổng sắt. Ra đến hè phố, cô đâm xầm vào tôi khiến tôi loạng choạng suýt ngã, rồi cô túm lấy tôi như kẻ chết đuối túm được cái cọc.
- Bình tĩnh đã nào, - tôi lấy lại thăng bằng. - Cô bình tĩnh đã chứ.
Cô gái đã trấn tĩnh lại đôi chút, không kêu lên nữa, mà khóc nức nở.Thú thật là bản thân tôi cũng lúng túng.
- Cô có chuyện gì phải không? - tôi hỏi. Nhưng thấy câu hỏi vô duyên, tôi nói thêm. - Có chuyện gì vậy?
Cô gái nín thở, mắt lấm lét trỏ vào ngôi nhà:
- Trong ấy... trong ấy...
- Trong ấy sao?
- Có một người chết... nằm trên sàn nhà... bà ta suýt nữa giẫm phải ông ta.
- Ai? Mà tại sao lại giẫm?
- Bà ấy mù, tôi đoán thế. Còn ông ta thì đầy máu.
Đột nhiên cúi xuống nhìn hai bàn tay, cô gái vội buông tôi ra.
- Tay tôi cũng đầy máu đây này, - cô ta nói thêm.
- Đúng thế, - tôi nhìn lên ống tay áo tôi cũng rây vết máu. Tôi thở dài. - Cô làm rây sang áo tôi nữa đây này. - Suy nghĩ một chút, tôi nói. - Cô dẫn tôi vào trong đó xem thử.
- Không, không. Tôi sợ lắm... Tôi không dám vào cái nhà ấy nữa.
- Có lẽ cô nói thế là đúng, - tôi nói rồi đưa mắt nhìn xem có chỗ nào dìu cô gái đến, bởi tôi thấy cô đang xỉu đi, không thể đứng vững.
Tôi đỡ cho cô từ từ khuỵu xuống bên cạnh hàng rào sắt, rồi đặt cô ngả đầu vào hàng rào.
- Cô ngồi yên đây, đừng đi đâu. Đợi tôi ra đã. Nếu mệt quá, cô cúi xuống, gục đầu lên đầu gối mà nghỉ.
- Bây giờ thì tôi hơi dễ chịu rồi.
Cô nói bằng giọng không được tự tin cho lắm.
Tôi không gặng hỏi thêm, chỉ vỗ nhẹ vai cô an ủi, rồi đi nhanh vào nhà. Vào qua cửa ngoài, tôi liếc nhìn sang gian bên trái, đó là phòng ăn. Tôi đi thẳng vào phòng khách bên phải.
Trong đó, một bà có tuổi, tóc hoa râm, đang ngồi trong chiếc ghế xa lông, nghe thấy tiếng động, bà ta quay đầu lại.
- Ai thế?
Tôi cũng nhận thấy ngay là bà ta mù. Mặt quay về phía tôi, nhưng cặp mắt lại hướng lên phía bên trên đầu tôi. Tôi hỏi thẳng vào vấn đề.
- Vừa rồi, một cô gái trẻ lao ra ngoài đường, kêu lên rằng trong này có một người bị giết.
Trong lúc đang nói, tôi đã thấy ngay câu hỏi của tôi hồ đồ. Trong một gian phòng ngăn nắp thế này, trước mặt một phụ nữ dáng quý phái, ngồi chắp hai tay lành hiền, bình thản, làm sao có thể có xác chết nào được?
Nhưng bà già đáp:
- Đúng đấy. Sau cái đi văng kia kìa.
Tôi vòng ra sau lưng đi văng thì thấy nạn nhân, cánh tay cứng đờ, hai mắt mở to như mắt thủy tinh, và vết máu loang trên áo đã khô lại.
- Đầu đuôi thế nào? - tôi thô lỗ hỏi.
- Tôi hoàn toàn không biết gì.
- Nhưng ông ta là ai?
- Tôi không biết.
- Phải báo cảnh sát ngay, - tôi đưa mắt nhìn quanh. - Điện thoại bà để đâu?
- Nhà tôi không có điện thoại.
Tôi chăm chú nhìn bà ta.
- Đây là nhà bà?
- Đúng thế.
- Bà có thể kể tôi nghe từ đầu được không?
- Tất nhiên là được. Tôi ra phố mua sắm về... - lúc này tôi đã nhìn thấy chiếc làn đi chợ để trên một chiếc ghế gần cửa. - Vào đến đây, tôi cảm thấy trong nhà có người. Người mù bao giờ cũng thính. Tôi hỏi “Ai đấy?” Không thấy tiếng trả lời, chỉ nghe thấy tiếng thở hổn hển. Tôi bèn đi về phía có tiếng thở, thì đột nhiên một giọng con gái hét lên, kêu lên rằng ở đó có xác chết, rằng tôi đừng đi tiếp nữa kẻo giẫm phải. Thế là cô gái chạy vụt ra, vừa chạy vừa rú lên.
"Được! Vậy là hai người nói ăn khớp nhau, tôi thầm nghĩ."
- Sau đó bà làm gì?
- Tôi lần đến đấy, và chân tôi vấp phải một vật gì đó.
- Rồi sao nữa?
- Tôi quỳ xuống, sờ thử, đụng phải bàn tay một ngưòi đã lạnh giá, mạch không còn đập. Tôi bèn ngồi vào đây, đợi người đến, bởi cô gái kia hẳn đi báo cảnh sát. Tôi nghĩ tốt nhất là chẳng nên ra khỏi đây.
Thái độ điềm tĩnh của bà già làm tôi kinh ngạc. Bà ta không la hét, không hốt hoảng chạy ra khỏi nhà, mà lại ngồi bình tĩnh đợi! Tôi công nhận làm như thế là đúng, nhưng không phải ai cũng làm được như thế.
Bà ta hỏi tôi.
- Vậy ông là ai?
- Tên tôi là Colin Lamb, tôi tình cờ đi ngang qua bên ngoài nhà bà.
- Cô gái kia đâu rồi?
- Tôi dìu cô ta ngồi tựa vào hàng rào sắt, để cô ta trấn tĩnh lại. Tôi muốn gọi điện thoại thì phải đi đâu?
- Cách đây chừng năm chục mét, có một trạm điện thoại công cộng ở chỗ vòng ấy.
- Phải rồi, có. Tôi nhớ đã nhìn thấy lúc đi đến đây. Bà...
Tôi ngập ngừng. Tôi định hỏi bà ta một câu gì đó, đại loại như “Bà cứ ngồi đây chứ?” Hoặc: “Bà không sao chứ?”
Bà ta như đoán được, nói:
- Tốt nhất là ông nên đưa cô gái kia vào đây ngồi nghỉ.
- Tôi e cô ấy không chịu vào.
- Tất nhiên không phải vào phòng này, nhưng cô ấy có thể sang phòng ăn, ngay bên cạnh. Bảo cô ấy là tôi sẽ pha một ấm trà nóng cho cô ấy uống.
Bà ta đi về phía tôi.
- Nhưng bà...
Trên môi bà ta hiện lên một nụ cười buồn rầu.
- Từ khi tôi đến sống ở ngôi nhà này, đã mười bốn năm rồi, tôi đều tự nấu nướng lấy. Mù chưa phải có nghĩa không làm gì được,
- Bà tha lỗi. Đúng là tôi hỏi câu ngu xuẩn. Tôi muôn biết tên bà, được không ạ?
- Tên tôi là Pebmarsh.
Tôi đi nhanh ra ngoài. Thấy tôi, cô gái trẻ ngước mắt nhìn. Tôi dìu cô đứng lên.
- Tôi thấy trong người dễ chịu rồi, - cô nói.
- Hay lắm, - tôi vui vẻ đáp.
- Có đúng là trong đó có một người bị giết không?
- Đúng, - tôi đáp rất nhanh. Bây giờ tôi chạy đi gọi điện thoại, báo cảnh sát. Theo tôi, cô nên vào trong nhà đợi tôi. - Tôi nói hơi to như ra lệnh, để cô gái không kịp phản đối. - Bà Pebmarsh sẽ pha trà cho cô uống.
- Vậy bà mù đó là bà Pebmarsh?
- Chính thế. Bà cụ cũng kinh hoàng, nhưng vẫn giữ được điềm tĩnh. Nào, ta vào. Trong lúc đợi tôi, cô dùng một chén trà nóng, sẽ tỉnh táo hơn.
Tôi xốc nách, dìu cô gái đứng lên, đưa cô vào nhà, đặt cô ngồi trong phòng ăn. Rồi tôi chạy nhanh ra ngoài.
- Đồn cảnh sát Crowdean đây! - đầu dây bên kia một giọng nói thản nhiên.
- Tôi xin gặp ông thanh tra Hardcastle. Tôi là Colin Lamb.
Lát sau đích thân Hardcastle cầm máy.
- Colin đấy à? Cậu đang ở đâu đấy?
- Trong thị trấn Crowdean của cậu, phố Wilbraham Crescent. Có một người bị giết trong ngôi nhà số 19. Mình đoán là bị đâm. Nạn nhân chết được chừng nửa giờ rồi.
- Ai phát hiện thấy? Cậu à?
- Không. Mình chỉ tình cờ đi ngang qua, đột nhiên một cô gái trẻ lao từ trong nhà ra như tên bắn, đâm sầm vào làm mình suýt ngã. Cô ta bảo trong nhà có một người chết, và một bà mù suýt giẫm phải cái xác.
- Colin, cậu không đùa mình đấy chứ?
Giọng Hardcastle có vẻ nghi ngờ.
- Chuyện nghe quái lạ, đúng thế, nhưng thực sự là như vậy. Bà mù đó là chủ nhân ngôi nhà, bà Pebmarsh.
- Và bà ấy giẫm lên xác chết?
- Cậu hiểu sai câu mình nói rồi. Bà ta mù, nên không nhìn thấy.
- Thôi được, mình sẽ tiến hành ngay những việc cần thiết. Cậu làm gì cô gái ấy rồi?
- Bà Pebmarsh đang cho cô ấy uống trà.
- Chà, chuyện nghe có vẻ ly kỳ đấy, - thanh tra Hardcastle nói.

Chương sau