Macao - Trinh nữ giang hồ - Chương 06
Từ Xung thằng đến Hồng kông
Ngày đăng 14-11-2017
Tổng cộng 13 hồi
Đánh giá 9.4/10 với 22874 lượt xem
Họ đi thì Văn Bình đến.
Chàng không bay thẳng 1 mạch từ Nam Mỹ qua Hồng kông như chương trình dự liệu. Phi cơ đáp xuống đảo Xung thằng, nơi đó chàng sẽ gặp viên tổng thanh tra, đặc trách khu vực Bắc Á của CIA. Tình báo nhà giàu nên họ tiêu xài không đếm. Nếu là điệp vụ do ông Hoàng điều khiển thì năm thì mười họa chàng mới được ngự phi cơ riêng. Ngay cả trong những chuyến riêng này lộ trình cũng không được quá 3.000 cây số. Chàng chỉ được dùng phi cơ nhỏ, càng ít chỗ càng tốt. Bởi vậy, chuyến đi từ La Paz đến Xung thằng là cuộc tĩnh dưỡng thần tiên đối với Z.28. Họ giành cho chàng 1 con chim sắt hạng đại, tất cả những cái gì to lớn và mang danh phản lực của Air Việt Nam chỉ là đồ … bỏ, trên đó được trang trí đàng hoàng, sang trọng như lâu đài. Phòng ăn, phòng ngủ, phòng hút thuốc lá, phòng tắm ngăn nắp, thừa mứa tiện nghi. Văn Bình chưa hề ngửi mùi phi cơ đặc biệt của ông tổng thống Mỹ, nhưng nghĩ thầm phi cơ đặc biệt này cũng khó thể khoái hơn. Hỏi nhỏ đại tá Pít –anh bạn khác màu da, khác sở thích, và khác hoàn cảnh gia đình, song lại chơi thân với chàng kinh khủng- thì được trả lời « xe hơi cưỡi mây của ông Sì Mít đấy. Ông già ông ấy sợ anh … đau lưng nên mới cho anh đi thử ».
-Đi thử ? Nghĩa là phi cơ mới tậu, ông Sì Mít chưa xài ?
-Dĩ nhiên. Anh là người có hân hạnh « cắt chỉ ». Riêng điều này đủ chứng tỏ ông Sì Mít có biệt nhỡn của anh chừng nào.
Biệt nhỡn còn ít. Siêu biệt nhỡn mới đúng. Là vì ông Sì Mít nhờ chàng việc gì, chàng đều thành công vẻ vang. Biết tính chàng, ông ra lệnh cho ban tiếp tân mua loại huýt ky ngon nhất thế giới. Chiêu đãi viên cũng thuộc hạng giỏi và thơm. Chàng được hầu hạ sướng hơn cả ông hoàng ( xin lưu ý : chữ h đây là h thường, không phải H hoa, vì ông Hoàng, tổng giám đốc Sở Mật Vụ quanh năm sống đạm bạc, có bao giờ hưởng thú « de luxe » đâu ) để chàng quên cuộc hành trình dài lê thê qua Thái bình dương. Ông Sì Mít còn dặn ban tiếp tân thuê gần 20 cuốn phim màu do các hãng lớn sản xuất trên màn ảnh đại vĩ tuyến, và do các tài tử gạo cội đóng vai chính. Món « bên lề » cũng vậy, chàng muốn lúc nào là có lúc ấy. Thế mà hỡi ôi … mọi dự đoán của ông Sì Mít và của đại tá Pít đều sai bét vì Văn Bình nốc 1 hơi huýt ky rồi … lăn ra ngủ. Trên màn ảnh, cao bồi, tướng cướp, và ông cò bắn súng đì đoàng, người chết như rạ, máu chảy thành vũng mà chàng vẫn ngáy đều. Mãi khi đến gần Xung thằng, chàng mới lồm cồm dậy như thể trong óc chàng có sẵn đồng hồ báo thức. Chàng ngáp dài, hỏi bạn :
-Sắp ?
Pít đáp :
-5 phút nữa hạ cánh. Anh tài thật. Ngủ đã chưa ?
-Chưa. Nếu không bận việc, tôi còn có thể kéo luôn 1 ngày 1 đêm nữa.
Văn Bình kêu nữ tiếp viên lại với bảng ghi các loại rượu. Pít hỏi :
-Anh uống ?
Văn Bình lắc đầu :
-Không. Tôi chọn vài chai vang để lát nữa …
-Ô, nhà ông tổng thanh tra thiếu gì.
-Vẫn thua ông Sì Mít.
Chàng bâng khuâng giây lâu trước hàng chữ Bót đô ( Bordeaux ) 1961 :
-Có mấy chai của mùa nho 1961 ?
Nữ tiếp viên nhăn nhó :
-Thưa … thưa không có.
-Vậy, vang đỏ Bót đô có những loại nào ?
-Thưa, 1962 và 1965.Thứ 1962 chỉ có 1 chai. Còn 1965 thì rất nhiều. Vang 1965 rất ngon, mời ông …
Chàng gạt phắt :
-Không lấy. Vang trắng đâu, đưa tôi coi ?
Pít sửng sốt :
-Tôi vừa uống 1 chai 1965 hồi nãy, ngon lắm anh ơi !
Văn Bình gõ ngón tay vào đầu bạn, không khác thày giáo răn dậy cậu học trò đồng ấu :
-Ông đại tá Pít ơi, chỗ của ông là trong văn phòng đánh vẹt ni bóng loáng, hoặc bên cạnh cái nôi có đứa con mũm mĩm đang bú sữa và bà vợ … tốt da tốt thịt. Bót đô đỏ mùa nho 1962 là thứ bết nhất, kể từ nhiều năm nay, anh hiểu chưa ? Nếu cho điểm từ 0 đến 20 thì năm 1962 chỉ được 8 điểm. Năm 1965 khá hơn nhiều. Với 16 điểm. Nhưng 1961 mới đáng đồng tiền bát gạo, 20 điểm trên 20. Ngoài nó ra chỉ có Bót đô năm 1945 mới dám so sánh với nó. Rượu chán mớ đời như thế này thì ai uống ? Nào, vang trắng đâu ?
Nữ tiếp viên đáp :
-Dạ … dạ, rượu Sô tẹc ( Sauternes, cũng thuộc vùng Bordeaux ) cũng chỉ có thứ trung bình.
-Vậy mà ông đại tá của cô cứ khen lấy khen để là trên phi cơ toàn đệ nhất tửu.
-Thưa, sâm banh thì khá.
-1955 và 1952 ?
Cô tiếp viên xanh mặt. Văn Bình vừa đòi thứ sâm banh thượng hảo hạng, từng được Hàn lâm viện Rượu vang Pháp chấm 19 và 20 điểm. Cô tiếp viên lắp bắp mãi không thành tiếng. Đại tá sẵng giọng :
-Lại không có. Bê bối quá. May là bạn thân, chứ nếu khách lạ thì phen này tôi còn mặt mũi nào nhìn người ta nữa
Cô tiếp viên nói gần như mếu :
-Em xin lỗi ông.
Trong suốt chuyến bay, Văn Bình chưa có dịp ngắm nghía mấy cô tiếp viên căng cứng và khả ái. Ngủ nghê đầy đủ xong, chàng cảm thấy tâm thần thoải mái, và khi ấy chàng mới tiếc rẻ. Chậc, cô bé khá đẹp :
-Còn phần cô, cô thuộc năm nào ?
« Thuộc năm nào » có nhiều nghĩa. Sinh năm nào, tốt nghiệp đại học năm nào trước khi gia nhập ngành điệp báo. Nhưng cái nghĩa chàng muốn lại khác. Không hiểu, nàng đứng ngẩn tò te. Đàn bà ngơ ngác thường đáng yêu. Phương chi nàng độ 23, 24, thân hình chưa có khoảng mềm và nét gẫy. Nàng chưa phân biệt được nếp tẻ gì thì Văn Bình đã nắm tay kéo tới. Nàng ngã ngồi trên đùi chàng. Và chàng hôn nàng. Đại tá Pít ngó bạn, nửa khâm phục, nửa sửng sốt. Văn Bình thường có lối tấn công chớp nhoáng. Nếu là kẻ khác thì ăn bạt tai cháy má như chơi. Nhưng cô tiếp viên không hề phản đối. Trái lại, nàng còn đáp ứng cuồng nhiệt. Buông nàng ra, Văn Bình nói :
-Em còn hơn sâm banh 1955 và 1952 một bậc.
Nàng ưỡn ngực khiêu khích :
-Anh liệt em vào năm nào ?
-1962.
-Cám ơn anh. Em có nhà ở Hoa Thịnh Đốn, gần nhà đại tá Pít. Khi nào anh quá đó, đừng quên gọi điện thoại cho em. Anh đã khen em là sâm banh 1962, chắc chắn em sẽ không làm anh thất vọng.
Nàng rún rảy trên đôi giày cao gót bước sang cabin bên. Phản lực cơ sửa soạn hạ cánh. Đèn đỏ bật sáng yêu cầu buộc dây lưng an toàn. Đại tá Pít hỏi Văn Bình :
-Hai người nói với nhau những gì, tôi mít đặc hoàn toàn.
Văn Bình nhún vai :
-Có vợ rồi, biết thêm chỉ thêm khổ.
-Tội nghiệp thân tôi, sâm banh mùa nho 1962 bên Pháp là sâm banh hạng nhất, phải không?
-Hạng nhất thì có 1955 và 1952. Sâm banh năm 1962 cuộc loại siêu. Cũng như văm là đàn bà đẹp mái ấy mà. Đẹp hơn nữa là siêu văm. Sâm banh 62 có một số đặc điểm, ấy là mùi vị của nó nhẹ hơn, thanh cao hơn, và nhất là quý phái hơn mọi thứ khác. Dân chuộng sâm banh quốc tế thường tôn nó là thứ rượu quý phái nhất hiện nay.
-Thì ra anh khen cô ả có vẻ đẹp quý phái. Gớm thật, chưa thấy ai đáo để bằng anh. Tán gái bằng ngôn ngữ sâm banh.
Văn Bình cười :
-Cũng tùy người. Và mỗi nơi 1 cách. Mỗi típ đàn bà tán 1 nghệ thuật riêng biệt. Đem áp dụng phương pháp chọn rượu sâm banh ở Bôlivi chẳng hạn với cô vợ già của Chicô ở La Paz thì ốm đòn.
-Chuyện. Đàn bà mắt sếch thường dữ.
-Không cứ. Phụ nữ La Paz, dầu mắt sếch hay không đều dữ như nhau. Tuy nhiên, dữ ở đây không có nghĩa là vũ phu. Họ đảm đang và hơi lấn át. Riêng trong phòng the, họ rất dữ dội. Nhất là phụ nữ da màu, lai mọi, chân dài ngoằng, thân nhỏ, đầy thịt rắn chắc …
Văn Bình nheo 1 con mắt :
-Phì nộn và yếu tim như anh thì khó thọ đến 30. Anh biết tại sao họ dữ không ? Do phong thổ mà có. Trong vòng 127 năm độc lập của Bôlivi thì có đến 128 cuộc đảo chính, cách mạng. Các chính phủ đua nhau đổ loạn xạ, một phần có sự tham dự của phái yếu. Tiếng là phái yếu, họ chẳng yếu chút nào. Họ buôn bán tần tảo nuôi chồng. Hễ buôn là buôn lậu. Con thì phần nhiều là con hoang. Để tôi kể lại cuộc cách mạng thành công tháng 4 năm 1952 anh nghe. Dọn đường cho cuộc nổi dậy, 1 số phụ nữ nhan sắc mặn mòi đến bắt tình với binh lính ở các trạm gác quan trọng. Trong giây phút đầu gối tay ấp lẽ nào ôm khẩu súng khư khư. Chàng lính phải vứt bên để hú hí người đẹp. Rốt cuộc chàng không được ân ái, chàng còn bị tước súng, và bị trói gô như khúc giồi.
Chợt có tiếng nói thanh tao :
-Anh coi chừng, nếu anh không giữ lời hứa, em sẽ làm thịt anh như phụ nữ Bôlivi năm 1952.
Cả Văn Bình lẫn đại tá Pít đều quay lại. Cô tiếp viên nõn nà hồi nãy đã đứng đấy. Phi cơ đã đáp xuống êm ái. Cửa phòng được mở rộng, cầu thang nhôm cao lêu nghêu, sơn trắng, óng ánh, được đẩy đến sát. Đôi bạn trai mãi trò truyện nên không để ý đến sự chuẩn bị rộn rịp chung quanh. Văn Bình chưa kịp đáp, nàng đã ôm ghì và hôn giữa miệng chàng. Phi hành đoàn tề tựu đông đủ dưới sàn bê tông, người đứng lố nhố mà cô tiếp viên phớt tỉnh như thể nàng đang đóng phim.
Bỗng dưng chàng được giai nhân âu yếm hôn. Chàng không chê sắc đẹp bao giờ, vì thế chàng hôn trả lại ngay, và hôn thật lâu. Đại tá Pít phải kéo chàng ra, giọng chán đường :
-Thôi ông, đến Naha rồi ông ơi. Mọi người đang chờ ông bên dưới.
Nếu Pít không nhắc, Văn Bình đã quên nhiệm vụ. Đây là Naha, thủ phủ và trung tâm kinh tế của Xung thằng. Du khách ghé Naha thường chỉ nghĩ đến 2 chữ Xung thằng, Okinawa. Có lẽ vì Naha là 1 thành phố nhỏ xíu, không có tiếng tăm. Thật ra đến Naha mà nói đến Xung thằng cũng không đúng. Muốn đúng, phải nói đến quần đảo Riu kiu (1). Quần đảo này gồm 73 hòn đảo, trong số có 47 đảo không dân cư, và phân chia làm 3 nhóm. Xung thằng là nhóm đảo lớn nhất.
Văn Bình được mời lên chiếc xe Hoa Kỳ kiểu mới ra lò. Naha cách Hồng kông 2 giờ phi cơ phản lực. Chàng sẽ thay phi cơ tại đây. Tòa nhà biết bay cực kỳ lộng lẫy của ông Sì Mít không thể tiếp tục chở chàng đến Cảng thơm vì lý do an ninh. Tài xế không lái vào đường phố chính mà là chạy về phía nam thị trấn, dọc theo xa lộ số 3, đến gần làng chài lưới đông đảo. Nơi đây cách thành phố non 10 cây số, và là địa điểm có nhiều đài kỷ niệm. Trong thế chiến thứ 2, khi quân Mỹ đổ bộ lên Xung thằng do Nhật chiếm giữ thì số người chết từ mọi phía lên đến 1 phần 4 triệu. Không khí đượm vẻ bùi ngùi mặc dầu nước biển vẫn xanh trong và cảnh hoàng hôn ngợp nắng vàng tuyệt đẹp. Văn Bình đập cánh tay đại tá Pít :
-Phụ nữ ở đây cũng dữ lắm, anh ơi !
Pít tưởng bạn đùa dỡn nên không trả lời. Vả lại, xe hơi bắt đầu lăn bánh vào biệt thự rộng bao la của viên tổng thanh tra CIA ở sát biển. Văn Bình không quan tâm đến những luống hoa khoe sắc trong vườn. Tâm hồn chàng đang chìm trong sương mù của quá khứ.
Phụ nữ trong vùng nổi tiếng dữ không thua phụ nữ Bôlivi. Vì theo truyền thống địa phương, đàn bà có nhiều quyền hơn đàn ông. Văn Bình đã có cơ hội -1 cơ hội vừa khoái trá vừa lo đứt hơi- nếm mùi « dữ » của phái yếu địa phương nhân 1 chuyến hoạt động trên đảo. Xung thằng được coi là thiên đường hạ giới của thú bơi lặn, săn cá dưới biển. Những rừng san hô ở đó gồm đủ màu sắc và hình thù gợi cảm. Ai đã nhìn ngắm 1 lần là phải trở lại nhìn ngắm nhiều lần nữa, như thể đáy biển có ma túy. Văn Bình mê săn cá, song chưa mê bằng tắm đêm. Bãi Trăng ở đó lại là bãi mà khách giang hồ lão luyện liệt vào hạng thần tiên cho kẻ tắm đêm. Chàng tắm đêm ở Bãi Trăng và làm quen 1 cô gái mĩ miều cũng nghiện tắm đêm như chàng. Đêm ấy, thật ra có nhiều cô gái xinh đẹp cũng tung tăng trong làn nước mát, thân thể lồ lộ. Chàng lân la hỏi chuyện cô gái bơi gần chàng nhất. Rồi việc phải tới đã tới. Nàng hẹn hò với chàng. Các bạn nàng không muốn nàng độc chiếm 1 chàng trai khôi ngô. Trận chiến diễn ra. Họ đánh nhau, hung hãn không kém đàn ông. Sau khi trừng trị cô gái tham lam và ích kỷ, họ quay ra tấn công chàng. Đêm ấy chàng phải vắt giò lên cổ mà chạy. Nếu chàng không giỏi khinh công chắc chắn các cô nường Xung thằng đã rần chàng tan xương nát thịt.
Viên tổng thanh tra đang làm việc trong phòng riêng. Ông trạc 55, 57 mái tóc bạc phơ, khuôn mặt hiền hậu, tuy nét mặt hơi đanh và luồng mắt sáng quắc đầy vẻ kiêu ngạo. Ông còn cái dáng dấp nhanh nhẹn của tuổi 30, nhưng Văn Bình vẫn thấy nơi ông 1 cái gì gò bó. Chàng đoán ông là quân nhân. Pít đeo lon đại tá mà chào ông 1 cách hết sức cung kính, nên ông có lẽ là tướng. Ông chìa thuốc lá mời Văn Bình hút, rồi nói :
-Lẽ ra, toàn bộ chi tiết công tác được nói hết với anh từ khi ở La Paz. Có sự trì chậm là vì giờ chót chúng tôi đã nắm được 1 số yếu tố mới. Tôi xin phép được bắt đầu từ đầu, nghĩa là bắt đầu từ sự biệt tích của tiến sĩ Chicô tại Đông kinh. Trong chuyến công xuất này của Chicô, 2 nhân viên CIA được lệnh theo sát ông 24 trên 24. Một nam, một nữ. Nam nhân viên đội lốt bí thư của Chicô. Nữ nhân viên chỉ từ xa kiểm soát chứ không xuất đầu lộ diện. Thể thức bảo vệ an ninh này được áp dụng kể từ năm ngoái sau khi công cuộc khảo cứu của Chicô đạt được kết quả khích lệ. Chicô và người bí thư ngụ trong đại lữ quán Kura. Khách sạn này gồm 537 phòng thuộc loại sang ở Đông kinh. Tuy nhiên, lý do Chicô được đưa tới đây thay vì những khách sạn tối tân hơn là vì nó tọa lạc gần tòa đại sứ Mỹ, phòng bất trắc xảy ra còn xoay sở kịp. Người bí thư ngụ chung phòng với Chicô, còn người nữ nhân viên ở tầng trên. Họ liên lạc kín đáo với nhau bằng máy vô tuyến bỏ túi. Đêm ấy, Chicô dự tiếp tân tại sứ quán về, đang rửa mặt trong phòng tắm thì địch bất thần ập vào phòng ngoài. Viên bí thư là võ sĩ nhu đạo đệ nhị đẳng đai đen, lại giỏi quyền Anh nên đã chống cự dữ dội. Địch rất đông, những 4 tên. Viên bí thư không địch nổi. Phương chi anh ta tay không, địch được trang bị toàn bằng súng hãm thanh. Anh ta bị bắn gục. Địch bắt Chicô mang đi. Tưởng viên bí thư đã chết, địch bỏ mặc. Không dè anh ta còn sống. Ngất đi mươi phút, anh ta tỉnh lại. Anh ta không đủ sức gây tiếng động lớn để lưu ý nhân viên lữ quán, cũng không thể bò lại điện thoại. May thay anh ta vẫn còn sáng suốt để kêu người nữ đồng nghiệp. Nàng đang ở lầu 12, lầu cao nhất. Xuống đến nơi thì nạn nhân hấp hối. Nạn nhân nói được ít lời thì tắt thở. Lục phòng tắm thì thấy mẩu giấy ghi thủ bút của Chicô. Trong lúc viên bí thư cầm cự với địch, ông đã nhanh trí nguệch ngoạc mấy chữ để lại. Nội dung như sau : « Bọn X. Chờ tôi họp báo ».
-Chicô biết tung tích của địch ?
-Biết. Từ nhiều tháng trước, địch đã héo lánh đến tận La Paz, tìm đủ lý luận để lôi kéo ông theo họ. Ông đã cương quyết từ chối. Hẳn anh đã rõ, « địch » đây là Quốc tế Tình báo Sở. Chữ X, là mật ngữ được ông Chicô dùng để chỉ Tình báo Sở. Xuyên qua bức thư ngắn của Chicô, chúng tôi đoán ông sẽ giả vờ hợp tác với địch, và địch sẽ cho phép ông tổ chức họp báo để loan tin ông tự ý theo họ.
-Và cuộc họp báo được triệu tập tại Macao ?
-Phải. Đúng 3 ngày sau. Trong cuộc họp báo, Chicô lớn tiếng công kích Mỹ, CIA và Tây phương. Chúng tôi bố trí cho 1 nhân viên mà Chicô quen mặt tham dự họp báo. Chicô vừa nói xong thì cúp điện. Chỉ cúp nửa tiếng đồng hồ, đủ cho Chicô ném 1 viên giấy xuống đất để nhân viên này nhặt. Trong thư này, Chicô cho biết vợ con ông bị bắt cóc từ La Paz chở đến Hoa lục.
-Mạn phép ngắt lời ông. Tại sao đã có thư của Chicô, các ông còn dẫn tôi đến gặp mụ vợ và đứa con giả mạo của Chicô ở La Paz ?
-Thứ nhất : tôi chỉ được thông báo bằng mật điện sau khi anh gặp họ. Thứ hai, giám đốc trú sứ của chúng tôi ở La Paz là đồ bù nhìn. Hắn bị Tình báo Sở lôi vào xiếc. Hắn thuộc thành phần tin cậy, nhưng rượu chè be bét và đàn bà đã làm đầu óc hắn rỉ sét. Sau khi Chicô bị bắt ở Đông kinh, Trung ương yêu cầu điều tra xem vợ con Chicô còn ở La Paz không, hắn đáp « còn » 1 cách ngon lành, và còn hót thêm là họ an toàn trăm phần trăm. Tôi phái 1 cộng sự viên kinh nghiệm hỗn danh là Hansen đến tiếp xúc với Chicô, theo yêu cầu của Chicô trong thư. Thư được viết bằng mật mã, bản dịch như sau …
Viên tổng thanh tra rút từ xếp hồ sơ trên bàn ra 1 tờ giấy đánh máy. Văn Bình lẩm nhẩm đọc :
« Địch thẩm vấn tôi nhiều lần, trước sau gần 8 tiếng đồng hồ về công cuộc khảo sát của tôi. Tôi chỉ đề cập đến Chicôzim. Địch hỏi về vũ trụ tuyến, tôi đáp là vũ trụ tuyến chỉ liên hệ tới sự phát triển utricularia, không hề mang tính chất quốc phòng, mặc dầu chương trình thử nghiệm được CIA tài trợ. Thoạt tiên, địch nghi ngờ. Dần dà, địch hơi tin. Vì tôi bỏ quốc tịch Mỹ, nhân viên sứ quán gặp tôi là chuyện dĩ nhiên, nằm trong thủ tục công pháp quốc tế. Nhân viên này sẽ nói cách nào để địch tin rằng tôi chỉ khảo sát utricularia, và chỉ phát minh ra Chicôzim. Địch muốn đưa tôi qua biên giới càng sớm càng tốt. Do đó tôi yêu cầu nhân viên của Trung ương phịa ra chuyện tôi còn mẹ già ở gần La Paz, và hăm dọa bắt giết bà, đại khái « săng ta » tôi. Trong khi gặp, nhân viên của Trung ương sẽ cho tôi biết chỉ thị. Cẩn thận : nơi tôi cư ngụ được địch gắn máy chụp hình bí mật.
Xin hành động gấp. Kẻo địch có thể hạ sát toàn gia đình tôi sau khi khám phá ra tôi cố tình dấu họ. »
Văn Bình buông tờ giấy, nước đầu :
-« Cố tình dấu họ », nghĩa là … ?
Viên tổng thanh tra đáp :
-Những tin tức về cây ăn thịt utricularia cho đến Chicôzim chỉ là tấm bình phong che đậy 1 bí mật quân sự trọng đại. Thành thật mà nói, tiến sĩ Chicô có nghiên cứu utricularia, và ông sắp sửa thành công. Nhưng Chicôzim không hề gần xa dính líu đến lãnh vực quốc phòng. CIA làm gì có thừa ngân khoản để tài trợ 1 công cuộc thử nghiệm khả năng ăn thịt của cây cỏ, cho dẫu đó là khả năng chưa hề thấy về thực vật học. Chúng tôi đã tiêu phí hàng chục triệu đôla vì Chicô phát minh 1 võ khí mới dựa trên vũ trụ tuyến. Thú thật với ông, tôi là cựu quân nhân cao cấp, tôi cũng chẳng biết gì về võ khí mới này. Tôi chỉ được ông Sì Mít cho hay lờ mờ rằng giá trị của nó phải tính từ ngàn triệu đôla trở lên, và ngay cả ngàn triệu đôla cũng khó mua được nó. Nếu chẳng may công trình của Chicô lọt vào tay người ngoài, nhất là vào tay Bắc kinh, thì sẽ gây nhiều hậu quả vô cùng tai hại cho tiền đồ thế giới nói chung, tiền đồ Hoa Kỳ nói riêng. Vì vậy, Chicô không thể lọt vào tay địch. Chicô phải được cứu thoát. Cứu thoát với bất cứ sự hy sinh to lớn nào. Ông Sì Mít vời đến anh vì ông nghĩ rằng ngoài anh ra …
-Hansen đã trao những chỉ thị nào cho Chicô ?
-Hai người gặp nhau sáng nay. Hansen đã lén ghi âm được cuộc đàm thoại. Mời anh nghe lại.
Viên tổng thanh tra vói tay lên cái tủ thấp chứa hồ sơ kê sát bàn giấy lấy xuống cái hộp dẹt màu đen. Ông loay hoay ấn nút rồi cắm vào sườn hộp 2 sợi dây. Đó là dây nghe, và hộp này là máy thu băng, kiểu thật nhạy, cuộn băng bằng kim khí, nhỏ hơn sợi tóc, thu gọn trong kích thước của hột đậu mà thời lượng có thể kéo dài trong nhiều tiếng đồng hồ. Máy ghi âm tí hon được giấu trong cái đồng hồ đeo tay của Hansen. Ngoài tác dụng ghi âm, nó còn 2 đặc điểm ly kỳ khác, ấy là khám phá được sự hiện diện của máy ghi âm của địch, đồng thời ngăn cản địch phăng ra sự hiện diện của nó. Nó được chế ráp tại Tây Đức, bằng sản xuất do 1 công ty điện tử Mỹ được CIA bí mật bảo trợ mua lại. Phòng thí nghiệm CIA đã mất nhiều năm trời để hoàn bị nó, và cải biến nó thành dụng cụ nghe lén gián điệp lợi hại có 1 không 2 trên thế giới. Văn Bình nghe rõ mồn một như thể tiến sĩ Chicô đang ngồi trước mặt chàng. Viên tổng thanh tra bâng khuâng với cái bật lửa và hộp thuốc lá bằng vàng khối. Cử chỉ này chứng tỏ sự bối rối tột độ. Văn Bình rút sợi giây nghe, đặt xuống bàn. Ông tổng thanh tra nói :
-Giờ anh đã nắm vững được nội dung câu chuyện giữa Chicô và Hansen. Thật ra nó chẳng có gì quan trọng. Nó chỉ là màn kịch nhằm đánh lạc hướng địch, và sửa soạn cho việc giải cứu gia đình Chicô. Trong cuộc đàm thoại, Hansen lén trao cho Chicô 1 cái quẹt máy phát tuyến. Giống hệt cái quẹt máy tôi cầm trong tay. Quẹt máy này phát ra luồng sóng thẳng, những vệ tinh của chúng tôi bay trên trời tiếp nhận được và truyền về Trung ương CIA. Chicô sẽ vượt biên giới với sự cho phép của Tình báo Sở để thăm vợ con. Nhờ làn sóng « bíp bíp » của quẹt máy, chúng tôi sẽ theo dõi được lộ trình của Chicô, và sau cùng xác định được vị trí vợ con Chicô bị cầm giữ. Nhiệm vụ của anh là đột nhập Hoa lục, dựa trên những dữ kiện do quẹt máy phát tuyến tiết lộ, tìm đến nhà giam cứu thoát vợ con của Chicô, rồi hộ tống họ rời Hoa lục an toàn. Ông Sì Mít vừa điện cho tôi hồi nãy. Ông cụ nhờ tôi nói lại với anh là công việc sắp tới rất khó khăn, khó khăn đến nỗi hy vọng thành công trở nên vô cùng mong manh. Vẫn biết theo thủ tục nghề nghiệp, nhân viên hành động được toàn quyền ưng thuận hay từ chối, nhưng ông cụ lại tin tưởng anh không từ chối. Anh Z.28, anh trả lời ra sao ?
Văn Bình cười :
-Nếu ông ở địa vị tôi, ông sẽ trả lời ưng thuận hay từ chối ?
Viên tổng thanh tra nhún vai, không đáp. Cửa xịch mở, 1 người phụ tá mang trình 1 phong thư gắn xi, đóng dấu son đỏ chóe. Viên tổng thanh tra giựt mình :
-Viễn ký của ông Sì Mít.
Văn phòng tổng thanh tra trên đảo Xung thằng được nối liền với Trung ương CIA ở Lan gờ li bằng hệ thống viễn ký scrambler. Người ngoài có thể bắt được tín hiệu mà không hiểu được gì hết, cho dẫu những tín hiệu này được đưa cho máy điện tử tối tân nhất phân tích. Phong bì được cắt 1 đầu bằng kéo, ông tổng thanh tra bóc ra 1 tấm phiếu cạt tông mỏng, màu vàng rơm, tuột xuống lòng bàn tay ông. Đó là tấm phiếu đục lỗ, loại xuyên phiếu thông thường của máy điện tử IBM. Ông mở cái két sắt chôn gọn trong tường bê tông. Ngón tay ông thoăn thoắt, ông thuộc làu cách mở, không hề vấp váp mà cũng phải đến 3 phút đồng hồ cửa tủ sắt mới chịu mở hé. Loại két của ông được trang bị máy tự vệ độc đáo gồm nhiều họng súng bắn đạn thuốc mê và ống ảnh tự động. Ông bấm nút trong tủ, âm thanh rè rè nổi lên, ông đút tấm phiếu vào cái khe nhỏ. Nửa phút sau, 1 mẩu bìa cứng màu vàng in chữ chi chít từ cái khe khác lộ ra. Ông cầm lên đọc. Thì ra tủ sắt này chứa đựng bộ máy dịch mật mã tối tân. Đọc lướt qua, ông thở phào :
-Chicô đã vượt biên giới.
Nhìn đồng hồ tay, ông tiếp :
-Anh ra phi trường ngay bây giờ, tối nay đến Hồng kông anh sẽ đi Macao bằng thuyền máy. Những tin tức về lộ trình của Chicô sẽ được chuyển cho anh tại đó. Kế hoạch của ta như sau : anh Z.28 phụ trách việc giải cứu vợ con của Chicô. Giờ phút ấy, Hansen và Pít giải cứu Chicô ở Macao. Hai anh cần hỏi thêm điều gì nữa ?
Dĩ nhiên là không. Trước khi từ giã, cấp lãnh đạo thường hỏi nhân viên hành động như vậy. Tương tự như tiếng chúc may mắn.
Văn Bình tiếc rẻ trèo lên chiếc xe hơi Mỹ dài ngoằng. Hộp đêm ở Naha không được giựt gân như ở Đông kinh, lại đắt đỏ hơn nhiều, nhưng ít ra khu ăn chơi Sakurazaka này còn giựt gân gấp đôi, gấp ba những cái giựt gân ở Sàigòn. Trước khi thưởng thức cái giựt gân trong xóm yên hoa, khách có thể an toàn thưởng thức các món ăn ngon bổ. Vì tiệm ăn nào sạch sẽ mới được quân đội Mỹ đồn trú trên đảo cấp cho chứng thư hạng « A » (2). Văn Bình vốn có thiện cảm với nền ẩm thực của Xung thằng, chàng lại quen 1 nơi kín đáo, tha hồ ngắm trăng, ngắm biển với giai nhân. Nhưng công việc là công việc. Mới đặt chân xuống Naha, chưa kịp ngó ngàng thiên hạ, cũng chưa kịp uống 1 hớp nước bản xứ, chàng đã phải tất tưởi lên đường.
Hồng kông ban đêm vẫn hấp dẫn như thường lệ. Song le, thời giờ là vàng bạc, có lẽ còn quý hơn vàng bạc nhiều lần, Văn Bình chỉ tạt qua trường bay Kaitak và các đường phố như gió để ra bến tàu. Từ Hồng kông đi Macao cách 40 dặm, có hai phương tiện chuyên chở thông dụng : bằng đò máy, và tốc đĩnh. Đò máy hơi lâu, những 3 tiếng đồng hồ nhưng thoải mái, nhất là thuê cabin riêng, được điều hòa khí hậu đàng hoàng, khỏi phải ngửi bồ hôi của hành khách, và như mọi người đều đồng ý, hành khách Tàu từng phá kỷ lục thế giới về khoản khạc nhổ bừa bãi. Đò máy còn có 1 điểm tri kỷ đối với Văn Bình : ăn uống khoái khẩu đã đành, có tàu còn cho trình diễn màn thoát y vũ làm huyết quản sôi trăm độ nữa. Chiếc tốc đĩnh chở Văn Bình trượt nhanh như pa tanh trên băng. Trên thực tế, dưới bụng tốc đĩnh được gắn pa tanh nên trong khi đò máy chạy rề rề như rùa bò, nó chỉ ngốn đường trong 75 phút (3). Chương trình dự liệu từ Xung thằng không sai một phút, chàng đến bến thì chuyến tốc đĩnh cuối cùng trong ngày sắp sửa ra khơi.
Theo kế hoạch, đại tá Pít và chàng đáp chung tàu mà như riêng. Mỗi người kiếm 1 góc ngồi, giả vờ không quen nhau. Trời khá nhiều trăng, song hành khách không quan tâm đến phong cảnh gợi tình. Người Tàu thường ưa thực tế, ít bay bướm. Vả lại, phần đông hành khách đều là dân đổ bác. Họ rời Hồng kông bằng chuyến tốc đĩnh chót để đến kịp giờ chơi bạc ở Macao, rồi sau 1 đêm miệt mài đen đỏ, họ trở về trên đò máy, khởi hành từ Macao hồi 4 giờ sáng, ngủ 1 giấc no nê, đến nơi thì kịp giờ mở cửa sở làm (4).
Không 1 chuyện nào xấu xa xảy ra trong suốt hơn giờ đồng hồ lênh đênh. Tuy vậy, Văn Bình chỉ ngồi hút thuốc. Chàng hút liên miên, thỉnh thoảng lại ngửa cổ thả những vòng khói tròn, nhân tiện kiểm soát chung quanh. Tự dưng chàng cảm thấy nóng ruột. Giác quan thứ 6 báo cho chàng một sự hiện diện nguy hiểm. Chàng quan sát kỹ càng, không thấy gì khả nghi. Chàng vẫn chưa yên tâm. Đại tá Pít đeo kiếng đen ngủ vùi. Y chẳng làm gì mà lúc nào cũng mệt.
Bến tàu Macao hiện ra trong sương mù pha ánh trăng sáng đục. Chàng rềnh rang chờ hành khách lên bộ gần hết mới lững thững bước theo lên. Đại tá Pít đang ngáp muốn sái quai hàm. Macao … Trên giải đất nhỏ xíu này, Văn Bình đã từng lưu lại nhiều kỷ niệm vui buồn lẫn lộn. Vui thì thật vui, vì có những buổi đánh bạc chí chạp, hễ đặt tiền là thắng, tiếp theo là những đêm khiêu vũ đến mỏi rừ chân, lê không nổi, nhất là những cuộc hẹn hò còn mất sức gấp mấy chục lần. Nhưng buồn cũng thật buồn. Vì định mạng kỳ quặc đã bắt những người đàn bà đẹp yêu chàng và được chàng yêu lại phải chết, chết 1 cách đột ngột, chết 1 cách thê thảm giữa tuổi xuân hồng (5).
Chàng vẫy taxi. Sợ nửa chừng phải xuống gấp chưa kịp trả tiền, chàng ném vào đùi anh tài xế miệng rộng như ống nhổ 10 đồng pataca. Pataca là đơn vị tiền tệ trên đảo, tương đương với đồng đôla Hồng kông. Một cuốc taxi từ 1 đồng tới đồng rưỡi pataca là đắt. Khách xộp cũng khó thể trả 5 đồng. Mà Văn Bình trả những 10 đồng. Bất cứ tài xế taxi nào trên thế giới cũng cám ơn rối rít, hoặc ít ra phải thay đổi nét mặt, biểu lộ sự hớn hở. Dưới ánh đèn loáng tháng Văn Bình thấy gương mặt hắn phẳng lì như thể hắn chưa nhìn rõ số tiền. Chàng không thể lầm : hắn đã cúi xuống đùi, mắt hắn sáng quắc như đèn pha xe hơi. Hắn phải biết chàng vừa cho hắn 10 pataca, 1 số tiền quá hậu hĩ. Vậy mà hắn không vui mừng. Hắn cũng không buồn nhét mấy tờ bạc vào túi. Một tia chớp xẹt qua óc. Văn Bình chợt hiểu. Chàng phóng nhỡn tuyến tìm đại tá Pít. Không thấy bạn đâu hết. Chàng thụt lại 1 bộ. Sự cẩn trọng của chàng không đến nỗi vô bổ.
Vì ngay khi ấy, cuộc tấn công cực kỳ ác liệt xảy ra …
Chú thích:
(1) tức Ryukyu, hoặc quần đảo Luchu. Ba nhóm đảo lớn hợp thành Ryukyu là Okinawa Gunto, Miyako Gunto, và Yaeyama Gunto, tổng diện tích 848 dặm vuông, với dân số 1.000.000
(2) hoặc chứng thư « hạng nhất » do chính quyền bản xứ cấp. Tưởng cần nhấn mạnh bộ truyện này được đặt vào bối cảnh địa lý trước năm 1972, năm Mỹ thỏa thuận trao hoàn Xung thằng cho Nhật bản. Đảo này được sát nhập vào Nhật bản năm 1872 cho đến năm 1945 bị Mỹ chiếm đóng.
(3) tiếng Anh hay Pháp là hydrofoil. Tàu hydrofoil được gắn chân vịt hoặc pa tanh đặc biệt dưới bụng. Kể ra hydrofoil dịch là tốc đĩnh không đúng hẳn, xin độc giả thứ lỗi.
(4) tức Gambler’s Ferry.
(5) xin đọc « Vệ nữ đa tình » đã xuất bản để theo dõi thiên tình hận của Văn Bình từ Macao đến Hồng kông và biên giới Hoa lục.