Lưới điện tử thần - Chương 41
Lưới điện tử thần
Chương 41
Ngày đăng 13-11-2017
Tổng cộng 87 hồi
Đánh giá 9.8/10 với 91344 lượt xem
Amelia Sachs mang tang chứng trở về nhà.
Rhyme nheo nheo mắt khi cô nhanh nhẹn bước vào.
Theo chân cô là cái mùi kinh tởm. Mùi tóc cháy, cao su cháy, thịt cháy. Một số người khuyết tật cho rằng vì khuyết tật mà họ có khứu giác nhạy bén hơn. Rhyme không chắc chắn về điều này, nhưng trong bất cứ trường hợp nào anh cũng không gặp vấn đề gì khi phát hiện những mùi khó chịu.
Anh xem xét số vật chứng mà Sachs và một kỹ thuật viên từ Queens đẩy vào. Nỗi khao khát giải đáp các bí ẩn xâm chiếm anh. Trong lúc Sachs và Cooper bày vật chứng ra, Rhyme hỏi, “Đơn vị Phản ứng nhanh có tìm thấy nơi Galt thoát ra khỏi đường hầm không?”
“Không một dấu hiệu nào. Hoàn toàn không.” Sachs nhìn xung quanh. “Ron đâu?”
Rhyme nói rằng chàng cảnh sát trẻ vẫn chưa trở về. “Anh gọi điện, nhắn tin. Không thấy cậu ta ho he gì. Điều cuối cùng cậu ta nói là đã phát hiện được động cơ của Galt, nhưng chưa đi vào chi tiết… Thế nào, Sachs?”
Rhyme bắt gặp cô nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ, nét mặt lặng phắc.
“Em đã sai lầm, Rhyme ạ. Em đã lãng phí thời gian sơ tán công trường xây dựng và hoàn toàn bỏ qua mục tiêu thực sự.”
Sachs giải thích chính Bob Cavanaugh xác định được mục tiêu là khách sạn. Cô thở dài. “Nếu em tư duy chính xác hơn, em đã có thể cứu họ.” Cô bước tới tấm bảng trắng và ấn mạnh bút viết “Khách sạn Công viên Bettery” bên trên cùng, và ngay bên dưới đó là tên các nạn nhân thiệt mạng, có vẻ là một đôi vợ chồng, một doanh nhân đến từ Scottsdale, Arizona, một nữ phục vụ bàn và một giám đốc quảng cáo đến từ nước Đức.
“Số nạn nhân thiệt mạng có thể còn cao hơn nữa. Anh nghe nói em đã phá vỡ cửa sổ để đưa mọi người ra.”
Sachs nhún vai đáp lại.
Rhyme cảm thấy cụm từ “nếu (thế này hay thế khác) thì sao” không đóng vai trò gì trong công việc của các nhân viên cảnh sát. Người ta chỉ làm hết sức mình, hành động theo hướng mang lại thành công cao nhất.
Tuy nhiên, anh cũng có tâm trạng giống Sachs, tức tối vì, mặc dù họ đã chạy đua với thời gian, và đã suy luận chính xác khu vực bị tấn công, họ không những đã không cứu được các nạn nhân mà còn bỏ mất cơ hội tóm cổ Galt.
Nhưng anh không cảm thấy xáo đảo như cô. Dù có bao nhiêu người mắc sai lầm và họ đáng trách tới mức nào đi chăng nữa, Sachs vẫn luôn luôn nghiêm khắc nhất đối với chính bản thân mình. Kể ra, anh có thể bảo cô rằng chắc chắn sẽ còn nhiều người thiệt mạng hơn nếu cô không ở đó, rằng Galt bây giờ biết gã đã bị nhận diện và suýt nữa bị thua trong cuộc đấu trí. Rất có thể gã sẽ từ bỏ tất cả các vụ tấn công. Tuy nhiên, nói những điều này với cô chẳng khác gì một sự hạ cố, nếu những điều này mà dành cho anh, anh thậm chí chẳng thèm nghe ấy chứ.
Ngoài ra, sự thật phũ phàng là, phải, thủ phạm đã trốn thoát vì họ đã sai lầm.
Sachs tiếp tục bày số vật chứng lên chiếc bàn khám nghiệm,
Gương mặt cô xanh xao hơn bình thường. Cô trang điếm hết sức nhẹ, và Rhyme nhận ra rằng hiện trường vụ án lần này cũng có tác động mạnh tới cô. Vụ chiếc xe buýt đã khiến cô kinh hoàng - chút kinh hoàng vẫn còn vương trong ánh mắt. Nhưng đây lại là một nỗi kinh hoàng khác, dư âm của việc chứng kiến những con người chết theo những cách thật khủng khiếp. “Họ đang… giống như họ đang nhảy múa trong lúc chết ấy, Rhyme.” Cô đã mô tả cho anh.
Sachs mang về bộ đồng phục quần yếm của Algonquin, mũ bảo hộ, túi đựng dụng cụ, một sợi cáp cỡ lớn, y hệt sợi cáp Galt sử dụng tạo ra hồ quang điện sáng hôm qua. Ngoài ra, còn vài túi thu dấu vết. Một vật nữa đựng trong túi nhựa dày: thiết bị đấu nối sợi cáp với đường dây chính, khác thiết bị Galt sử dụng tại trạm điện Algonquin trên phố Năm mươi bảy, cô giải thích. Tại trạm điện, gã sử dụng bu lông có chốt hãm, nhưng dưới đường hầm lại là một hộp nhựa, cố cuốn sách bìa cứng.
Cooper quét kiểm tra xem có chất nổ không, rồi mở nó ra. “Trông có vẻ tự chế, tuy nhiên tôi không biết nó là gì.”
Sachs nói, “Chúng ta hãy hỏi Charlie Sommers.”
Trong năm phút, họ đã có cuộc đàm thoại hội nghị với nhà sáng chế của Algonquin. Sachs mô tả vụ tấn công tại khách sạn.
“Tôi không biết nó kinh khủng tới mức ấy.” Sommers nói khẽ khàng.
Rhyme nói, “Cảm ơn lời khuyên của anh lúc trước, về việc hắn sẽ dùng điện như hắn đã thực hiện đó, thay cho một vụ nổ hồ quang thứ hai.”
“Tuy nhiên, chẳng giúp đỡ được gì mấy!” Người đàn ông lẩm bẩm.
“Anh có thể xem xét chiếc hộp chúng tôi thu giữ đây không?” Sachs hỏi. “Nó nối đường dây của Algonquin với đường dây hắn cho chạy vào khách sạn.”
“Tất nhiên rồi.”
Cooper gửi Sommers liên kết mạng để mở một video, rồi quét chiếc camera độ nét cao khắp trong lòng hộp.
“Thấy rồi. Để tôi quan sát chút… Đưa lại phía bên kia đi… Hay đấy. Không phải sản phẩm thương mại. Được làm bằng tay.”
“Đối với chúng tôi thì có vẻ vậy.” Rhyme nói.
“Tôi chưa bao giờ trông thấy cái gì như thế. Chưa bao giờ trông thấy cái hộp này. Nó là bảng phân phối, thuật ngữ chúng tôi dùng để gọi bộ chuyển mạch ở các trạm điện và trên hệ thống truyền tải.”
“Chỉ có chức năng đóng cắt điện?”
“Vâng. Giống như công tắc trên tường, ngoài việc nó dễ dàng chịu được đến một trăm nghìn volt. Bên trong có một quạt gió, một solenoid, một bộ tiếp nhận tín hiệu. Điều khiển từ xa.”
“Vậy, hắn đã đấu nối các dây không cần thay đổi dòng điện, rồi khi đã ở chỗ khác an toàn thì mới bấm công tắc. Andi Jessen nói hắn có lẽ sẽ thử một cái gì đó đại loại vậy.”
“Chị ấy nói à? Hừm. Hay đấy.” Rồi Sommers bổ sung thêm, “Nhưng tôi không nghĩ an toàn là vấn đề đâu. Mọi nhân viên khắc phục sự cố đều biết cách đấu nối dây an toàn. Hắn làm như thế này vì lý do khác.”
Rhyme hiểu. “Để tính toán thời điểm tấn công, hắn sẽ đóng điện khi có nhiều nạn nhân nhất.”
“Phải, tôi nghĩ đó là lý do.”
Sachs nói thêm, “Một trong hai công nhân bắt gặp hắn bảo rằng hắn lúc ấy đang quan sát hiện trường trên laptop của mình, nó có lẽ được kết nối với một camera an ninh gần đấy. Tuy nhiên, tôi không phát hiện được hắn kết nối ở chỗ nào.”
“Có thể đó là lý do hắn bấm công tắc sớm mấy phút,” Rhyme tiếp lời. “Hắn đã có cơ hội tấn công vào nhiều nạn nhân nhất, và hắn biết dẫu sao Algonquin cũng không chấp nhận yêu sách của hắn.”
Giọng Sommers thể hiện rằng anh ta bị gây ấn tượng, “Hắn quả là tài tình. Một sản phẩm thông minh. Thiết bị chuyển mạch đó có vẻ đơn giản, nhưng việc chế tạo ra nó khó khăn hơn các vị tưởng. Lực điện từ trong những đường dây chở điện áp cao như thế rất lớn, và hắn phải che chắn cho các linh kiện điện tử. Hắn thông minh đấy. Điều này, theo tôi, là tin xấu.”
“Hắn có thể lấy các bộ phận ấy ở đâu, solenoid, bộ tiếp nhận tín hiệu, quạt gió?”
“Ở bất cứ cửa hiệu nào trong số một trăm cửa hiệu bán đồ điện tử xung quanh đây. Hai trăm ấy chứ… Có số sê-ri không?”
Cooper kiểm tra kỹ lưỡng. “Không. Chỉ có số model, thế thôi.”
“Vậy các vị không may mắn rồi.”
Rhyme và Sachs cảm ơn Sommers. Họ kết thúc cuộc gọi.
Sachs cùng Cooper xem xét bộ dụng cụ của Galt, bộ đồng phục quần yếm của Algonquin và chiếc mũ bảo hộ. Không ghi chú, không bản đồ, không có gì chỉ ra nơi gã có thể đang ẩn náu hay tiếp theo gã có thể sẽ nhằm vào mục tiêu nào. Điều ấy chẳng làm họ ngạc nhiên vì Galt đã cố ý vứt lại mọi thứ và biết chúng thể nào cũng bị phát hiện.
Thám tử Gretchen Sahloff, từ trụ sở Đơn vị Khám nghiệm Hiện trường, đã thu các mẫu vân tay của Galt để lại tại văn phòng và dấu ấn chỉ ngón cái trong hồ sơ do bộ phận Nhân sự Algonquin giữ. Cooper xem xét toàn bộ vật chứng, so sánh với các mẫu vân tay này. Anh ta chỉ phát hiện ra vân tay của Galt. Rhyme cảm thấy thất vọng. Nếu họ phát hiện ra mẫu vân tay khác nữa, nó có thể đưa họ tới với một chiến hữu của Galt, một kẻ tòng phạm, hoặc một kẻ nào đấy thuộc nhóm Công lý cho, nếu nhóm đó có dính dáng đến những vụ tấn công.
Rhyme cũng để ý thấy chiếc cưa kim loại và chiếc kéo cắt bu lông không có trong túi, nhưng điều này không khiến anh ngạc nhiên. Đây là bộ dụng cụ cầm tay cỡ bé hơn.
Tuy nhiên, có chiếc cờ lê, và nó tạo ra dấu vết hoàn toàn giống với dấu vết để lại trên những chiếc bu lông ở trạm điện phố Năm mươi bảy.
Nhóm khám nghiệm hiện trường vụ hỏa hoạn tại trạm điện khu Harlem tới. Họ hầu như không thu thập được chứng cứ gì. Galt đã sử dụng một chai cháy đơn giản - một chai thủy tinh đổ đầy xăng, nút lại bằng một miếng giẻ. Galt đã ném nó vào cửa sổ có chấn song nhưng không đóng, xăng cháy chảy vào bên trong, làm vật liệu cách điện bằng cao su và nhựa bén lửa. Chiếc chai vốn là chai rượu vang - không có nắp xoáy - được sản xuất tại một nhà máy thủy tinh vẫn cung cấp sản phẩm cho hàng chục hãng rượu vang, hãng này lại cung cấp sản phẩm cho hàng nghìn cửa hiệu bán lẻ. Nhãn trên chai đã bị bợt ra vì ướt. Không thể truy nguyên.
Xăng của hãng BP, loại thường, còn miếng giẻ được xé ra từ một chiếc áo phông. Không thể lần tìm theo bất cứ thứ gì để tới một địa điểm cụ thể tuy chiếc giũa đuôi chuột tìm thấy trong túi đựng dụng cụ của Galt bám bụi thủy tinh, có thể có liên quan đến cái chai - nó đã bị giũa ngang ra, đảm bảo vỡ khi va vào cửa sổ.
Cả bên trong lẫn bên ngoài trạm điện đều không có camera an ninh.
Một tiếng gõ cửa vang lên.
Thom đi ra mở cửa và lát sau Ron Pulaski bước vào, với những chứng cứ cậu ta thu thập được ở căn hộ của Galt, đầy mấy két nhựa vốn dùng đựng sữa, chiếc kéo cắt bu lông, cưa kim loại, đôi giày cao cổ.
Chà, rốt cuộc, Rhyme nghĩ, bực bội vì sự chậm trễ, tuy nhiên cũng hài lòng thấy số chứng cứ đã về.
Không mỉm cười, Pulaski chẳng nhìn ai trong lúc xếp các thứ lên bàn. Rồi Rhyme để ý thấy bàn tay anh ta run bần bật.
“Cậu tân binh, cậu không sao chứ?”
Chang trai trẻ, quay lưng lại với mọi người, ngừng xếp các thứ, nhìn xuống, hai bàn tay đặt lên trên bàn trước mặt mình. Rồi cậu ta xoay lại. Hít một hơi. “Đã có tai nạn ở hiện trường. Tôi đâm xe vào một người. Một người vô tội, chỉ tình cờ có mặt tại đó. Ông ta đang hôn mê. Họ nghĩ ông ta chắc chết mất.”