Lưới điện tử thần - Chương 24

Lưới điện tử thần - Chương 24

Lưới điện tử thần
Chương 24

Ngày đăng
Tổng cộng 87 hồi
Đánh giá 9.7/10 với 91455 lượt xem

"Sachs đấy!”
Tiếng nổ
Tiêng nổ ầm trầm của động cơ xe vang lên phía bên ngoài cửa sổ, rồi tắt ngấm.
Rhyme đang nói chuyện với Tucker McDaniel và Lon Sellitto, hai người này mới tới, riêng rẽ, vào khoảng thời điểm ông Tiến sĩ Thần chết đột ngột rút lui.
Sachs sẽ ném tấm phù hiệu Xe công vụ Sở Cảnh sát New York lên bảng đồng hồ và đi thẳng vào nhà. Và, đúng là thế, lát sau, cánh cửa mở ra, tiếng bước chân của cô vang trên sàn, những tiếng bước chân cách xa nhau vì cô có đôi chân dài và vì sự khẩn trương cô lúc nào cũng khoác lên mình giống như vũ khí của cô vậy.
Cô gật đầu chào mấy người đang hiện diện ở đó, và dừng lại lâu hơn một giây xem xét Rhyme. Anh để ý nét mặt cô: vẻ dịu dàng trộn lẫn con mắt lâm sàng, nét mặt đặc trưng của những ai có quan hệ tình cảm với người khuyết tật nặng. Cô nghiên cứu về chứng liệt tứ chi còn nhiều hơn anh, cô xử lý được tất cả các thủ tục hàng ngày, rất riêng tư của anh, và thi thoảng vẫn làm. Lúc đầu, Rhyme cảm thấy xấu hổ nhưng khi cô nêu lên, một cách hài hước và có lẽ là có chút tán tỉnh “Thế này khác các cặp vợ chồng già ở chỗ nào nhỉ, Rhyme?” Nỗi xấu hổ đột ngột tiêu tan. Anh chỉ đáp được rằng, “Đúng vậy.”
Điều ấy không có nghĩa là tình yêu của cô, cũng giống như của bất cứ ai khác, lại không thi thoảng làm anh khổ sở, và anh đưa mắt liếc cô một cái, rồi trở về với các bảng chứng cứ.
Sachs nhìn xung quanh. “Phần thưởng đâu?”
“Đã có chút nhầm lẫn khi giới thiệu.”
“Ý anh là gì?”
Rhyme nói cho cô biết vụ quảng cáo bán hàng lừa đảo của ông tiến sĩ Kopeski.
“Không!”
Rhyme gật đầu. “Không có cái chặn giấy nào cả.”
“Anh quăng lão ta ra ngoài chứ?”
“Người làm việc đó là Thom. Và cậu ấy đã làm rất tốt. Nhưng anh không muốn nói tới chuyện này nữa. Chúng ta còn công việc phải làm.” Rhyme liếc chiếc túi đeo vai của Sachs. “Vậy, chúng ta có gì?
Rút ra vài tập hồ sơ lớn, cô trả lời, “Danh sách những người đã tiếp cận mật khẩu màn hình hệ thống máy tính Algonquin. Lý lịch và hồ sơ nhân sự của họ.”
“Những nhân viên có chuyện tức tối thì sao? Những người có tâm thần bất ổn?”
“Chẳng ai phù hợp cả.”
Sachs thuật lại chi tiết hơn cuộc gặp gỡ với Andi Jessen: Không có ghi chép gì về việc sửa chữa tại khu vực đường hầm dẫn hơi nước gần trạm điện trên phố Năm mươi bảy. Không có mối đe dọa khủng bố rõ rệt nào, nhưng một cộng sự của Jessen đang xem xét khả năng này. “Sau đó, em nói chuyện với một người ở bộ phận các Dự án Đặc biệt - Cơ bản là về năng lượng thay thế. Charlie Sommers. Một người tử tế. Anh ta đã mô tả sơ lược cho em về loại đối tượng có thể tạo ra một vụ hồ quang điện. Thợ điện tay nghề cao, thợ điện quân đội thợ đặt đường dây hay người khắc phục sự cố của các công ty điện lực…”
“Cô mô tả công việc đó xem nào.” Sellitto nói.
“Về căn bản, người khắc phục sự cố là một nhân viên kỹ thuật. Để tạo ra hồ quang điện, cần có kinh nghiệm làm việc trực tiếp. Không thể cứ mày mò trên Internet thôi mà được.”
Rhyme hất đầu về phía tấm bảng trắng và Sachs viết tóm tắt các thông tin. Cô bổ sung thêm, “Còn về vụ máy tính, phải được học hành ở trường lớp đàng hoàng hoặc được đào tạo qua công việc trong khoảng thời gian không hề ngắn. Nó cũng đòi hỏi những kiến thức khá phức tạp.” Cô giải thích về các Chương trình quản lý năng lượng và SCADA mà đối tượng chưa xác định hẳn phải thành thạo.
Cô viết cả các chi tiết này lên bảng.
Sellitto hỏi, “Danh sách gồm bao nhiêu người?”
“Hơn bốn mươi.”
“Ôi trời.” McDaniel lầm bầm nói.
Rhyme cho rằng một trong những cái tên trong danh sách có thể là thủ phạm, và Sachs hoặc Sellitto có thể thu hẹp lại thành một con số hợp lý hơn. Nhưng lúc này anh đang cần chứng cứ. Mà hầu như chẳng có chứng cứ gì cả, ít nhất là không có chứng cứ hữu ích lắm.
Đã gần mười hai tiếng đồng hồ trôi qua kể từ lúc xảy ra vụ tấn công và họ vẫn giậm chân tại chỗ trong việc tìm kiếm gã đàn ông xuất hiện ở tiệm cà phê, hay bất cứ đối tượng tình nghi nào khác.
Sự thiếu thốn manh mối thật đáng nản, nhưng đáng lo lắng hơn là dòng thông tin đơn giản viết trên bảng hồ sơ đối tượng: Có khả năng là kẻ đã ăn trộm gần 23m cáp loại tương tự của Bemington và 12 bu lông có chốt hãm. Dự tính tiếp tục tấn công?
Ngay lúc này, hắn đang dàn dựng gì đó chăng?
Trước khi xảy ra vụ tấn công xe buýt, hoàn toàn không có cảnh báo nào. Đấy có lẽ là phương thức hành động của tên tội phạm. Bất cứ lúc nào, các phương tiện truyền thông đều có thể đưa tin rằng hàng chục người đã bị thiệt mạng trong vụ hồ quang điện thứ hai.
Mel Cooper sao danh sách nhân viên Algonquin thành một bản nữa và họ chia các cái tên ra. Sachs, Pulaski, Sellitto nhận một nửa, McDaniel nhận một nửa, để các mật vụ liên bang dưới quyền anh ta tiến hành điều tra. Rồi Sachs xem xét những hồ sơ nhân sự đem về từ Algonquin, giữ lại những hồ sơ tương ứng với các cái tên họ đã lựa chọn, đưa những hồ sơ còn lại cho McDaniel.
“Tay Sommers này, em tin tưởng anh ta chứ?” Rhyme hỏi.
“Vâng. Anh ta đã xem xét bản danh sách. Và anh ta đưa cho em cái này.” Sachs rút ra một thiết bị điện tử nhỏ màu đen, hướng nó về phía sợi dây điện gần Rhyme. “Hừm. Hai trăm bốn mươi volt.”
“Anh thì sao, Sachs? Anh nạp điện đầy đủ chứ?”
Cô bật cười, nghịch ngợm hướng nó về phía Rhyme. Rồi dành cho anh cử chỉ mà theo anh là một cái nhướn mày quyến rũ. Điện thoại của cô reo chuông, cô liếc nhìn màn hình rồi nhận cuộc gọi. Cô trao đổi ngắn gọn. “Đó là Bob Cavanaugh, phó chủ tịch điều hành công việc hàng ngày. Ông ta chịu trách nhiệm kiểm tra những vấn đề liên quan tới khủng bố tại các chi nhánh của công ty trong toàn vùng. Không phát hiện được chứng cứ nào cho thấy có các nhóm khủng bố sinh thái đe dọa Algonquin hay tấn công nhà máy của họ. Tuy nhiên, có báo cáo về việc một trong những trạm điện chính ở Philadelphia bị xâm nhập. Một người đàn ông da trắng trạc tứ tuần đã vào trạm điện. Không ai biết người này là ai và làm gì lúc ấy. Không có video an ninh. Người này rời khỏi đấy trước khi cảnh sát tới. Chuyện xảy ra tuần trước.”
Màu da, giới tính, độ tuổi… “Cậu chàng của chúng ta đấy. Nhưng hắn muốn gì?”
“Không có vụ xâm nhập nào nữa tại các cơ sở của công ty.”
Phải chăng mục đích của thủ phạm là lấy thông tin về mạng lưới điện, về an ninh tại các trạm? Tại thời điểm này, Rhyme chỉ có thể phỏng đoán và, theo đó, đưa sự việc vào hồ sơ vụ án.
McDaniel nhận một cuộc điện thoại. Anh ta lơ đãng nhìn những tấm bảng trắng ghi thông tin về chứng cứ đã thu thập được, rồi anh ta kết thúc cuộc gọi. “Các nhóm C và T có thêm tín hiệu liên lạc về nhóm khủng bố “Công lý cho.”
“Gì vậy?” Rhyme hỏi giục giã.
“Không có gì đáng kể. Nhưng có một điều thú vị: Bọn chúng đang sử dụng những từ ngữ mã hóa mà trước đây bọn chúng đã sử đụng để chỉ các loại vũ khí lớn. “Giấy và các nguyên vật liệu” là những từ ngữ do thuật toán của chúng tôi phân lập ra.”
McDaniel giải thích rằng các cơ sở nằm vùng hay trao đổi thông tin theo cách đó. Người ta mới ngăn chặn được một vụ tấn công ở Pháp khi những tín hiệu liên lạc giữa các đối tượng bao gồm các từ ‘gateau’, ‘farine’ và ‘beurre’. Đó là các từ tiếng Pháp có nghĩa là ‘bánh ngọt’, ‘bột’ và ‘bơ’. Thực tế, chúng ám chỉ một quả bom cùng thành phần của nó: thuốc nổ và kíp.
“Theo Mossad, các cơ sở của Hezbollah đôi khi sử dụng cụm từ “vật dụng văn phòng” hay “đồ tổ chức tiệc” để nói tới tên lửa hoặc thuốc nổ mạnh. Cho đến lúc này, chúng tôi cũng nghĩ rằng ngoài Rahman còn hai kẻ nữa có liên quan. Một phụ nữ, một nam giới, máy tính bảo chúng tôi như vậy.”
Rhyme hỏi, “Anh đã thông báo với Fred chưa?”
“Ý kiến hay đấy.” McDaniel rút chiếc BlackBerry ra gọi.
“Fred, Tucker đây. Tôi đang mở loa ngoài ở chỗ Rhyme. Anh đã gặp may chưa?”
“Tay chỉ điểm của tôi đang bám theo một vài manh mối.”
“Đang bám theo à? Chưa có gì cụ thể hơn à?”
Một chút im lặng. Dellray nói, “Tôi không có gì hơn. Chưa có.”
“Chà, các nhóm C và T đã bổ sung một số phát hiện,” McDaniel cập nhật thông tin về những từ ngữ mã hóa, khả năng có một phụ nữ và một người đàn ông nữa liên quan.
Dellray nói anh ta sẽ cung cấp thông tin mới này cho đầu mối.
McDaniel hỏi, “Vậy hắn sẵn sàng làm việc với mức tiền đó ư?”
“Phải.”
“Tôi đã biết rằng hắn sẽ chịu mà. Bọn này sẽ lợi dụng anh nếu anh để bọn chúng lợi dụng, Fred. Đấy là cách làm việc của bọn chúng.”
“Cũng có lúc thật.” Dellray buồn rười rượi nói.
“Giữ liên lạc nhé.” McDaniel kết thúc cuộc gọi, vươn vai. “Cái miền đám mây chết tiệt này. Chúng tôi đang không xơi được nhiều như mong muốn.”
Xơi?
Sellitto vỗ vỗ tập hồ sơ nhân sự của Algonquin. “Tôi sang khu trung tâm đây. Bố trí người giải quyết cái này. Anh em, đêm nay sẽ dài đấy.” Lúc này, đồng hồ chỉ mười một giờ mười.
Sẽ dài, Rhyme ngẫm nghĩ. Cho cả anh nữa. Đặc biệt vì lúc này anh không có gì mấy mà làm, ngoài chờ đợi.
Ôi, anh căm ghét biết bao sự chờ đợi.
Anh mắt lang thang đưa về phía những tấm bảng ghi vài bằng chứng ít ỏi, anh nghĩ: Chúng ta đang nhích quá ư chậm chạp.
Và chúng ta ở đây, cố gắng tìm kiếm một thủ phạm tấn công với tốc độ ánh sáng.
HỒ SƠ ĐỐI TƯỢNG CHƯA XÁC ĐỊNH
- Nam giới.
- Độ tuổi 40.
- Có khả năng là da trắng.
- Có khả năng đeo kính, đội mũ.
- Có khả năng tóc ngắn, màu vàng.
- Quần yếm màu xanh lam thẫm, tương tự đồng phục của công nhân Algonquỉn.
- Rất thành thạo các hệ thống điện.
- Dấu giày gợi ý rằng không có vấn đề thể chất nào ảnh hưởng đến tư thế, dáng đi.
- Có khả năng là kẻ đã ăn trộm gần 23m cáp loại tương tự của Bennington và 12 bu lông có chốt hãm. Dự tính tiếp tục tấn công? Mở cửa vào nhà kho của Algonquin ăn trộm bằng chìa khóa.
- Có khả năng là nhân viên của Algonquin hoặc có quan hệ với nhân viên của Algonquin.
- Liên quan đến khủng bố? Có quan hệ với Công lý cho (chưa xác định)? Nhóm khủng bố? Cá nhân mang tên Rahman dính líu vào? Có những tín hiệu mã hóa về các khoản tiền chi trả, các động thái nhân sự và thứ gì đó ‘lớn’.
- Vi phạm an ninh tại trạm điện của Algonquin ở Philadelphia có thể có liên quan.
- Thông tin từ SIGINT: từ ngữ mã hóa ám chỉ vũ khí, “giấy và các nguyên vật liệu (súng, thuốc nổ?).
- Những người dính líu tới bao gồm một phụ nữ, một nam giới.
- Hắn đã nghiên cứu về SCADA - Chương trình Giám sát Điều khiển và Thu thập Dữ liệu. Và các Chương trình quản lý năng lượng. Algonquin sử dụng Enertrol. Cả hai đều dựa trên hệ điều hành Unix.
- Để tạo ra hồ quang điện, có khả năng đã hoặc đang là thợ đặt đường dây, thợ điện được cấp chứng chỉ, thợ điện tay nghề cao, làm việc tại công trường xây dựng, trong quân đội.

Chương trước Chương sau