Khỉ và hổ - Chương 09

Khỉ và hổ - Chương 09

Khỉ và hổ
Chương 09

Ngày đăng
Tổng cộng 11 hồi
Đánh giá 9.4/10 với 11782 lượt xem

Khi bước vào phòng cô gái đã mất, ông rất ngạc nhiên khi thấy nó được chiếu sáng bởi ánh sáng trắng bạc. Nó tới từ những tấm giấy của cửa trượt. Ông băng qua phòng và đẩy cửa mở ra. Mặt trăng đã lộ ra, tắm cả phong cảnh núi non trong ánh sáng trắng kỳ lạ của nó.
Ông bước ra ngoài ban công. Sàn nhà và lan can bằng gỗ vẫn còn ướt mưa. Ở đầu ban công trái là một giá để chậu hoa tre cảnh. Một vài chậu rỗng đặt trên ba cái kệ, chồng lên nhau, giống như bậc thang lên thư viện.
Bây giờ ông có thể thấy rõ ràng thực sự là bọn cướp đang làm phiến gỗ phá cửa. Tuy nhiên ông không nghĩ rằng, chúng có thể sẵn sàng trước khi bình minh, vì chúng cũng phải làm một xe đẩy để mang phiến gỗ xuống dốc đến cổng trang viên. Nghiêng người qua lan can, ông nhìn thấy khoảng hai mươi bước phía dưới mái của các khu nhà ở phía sau điền trang. Ông nhìn lên. Mái hiên phía trên ban công khá rộng. Phía trên thanh dầm của cửa trượt có một hàng các tấm gỗ bằng khoảng ba lỗ vuông, mỗi cái được khắc hoa văn phức tạp hình con rồng uốn lượn giữa các đám mây. Sự hoàn thiện một cách tỉ mỉ trong tất cả các chi tiết chứng tỏ trang viên này ít nhất đã được hai trăm năm tuổi. Cac kiến trúc sư bây giờ không còn dành quá nhiều quan tâm tới những chi tiết như vậy nữa.
Có một sự mát mẻ dễ chịu trong không khí; sương giá đã lại bao phủ được một lúc lâu. Ông quyết định để cửa khép hờ. Điều đó cũng sẽ giúp ông nghe thấy tiếng chiêng rõ hơn, nếu có thể là tiếng báo động. Ông định chuẩn bị đi ngủ, nhưng lại thay đổi ý định khi bỗng nhìn thấy bàn âm nhạc phía sau căn phòng. Thực sự ông không cảm thấy buồn ngủ, và thử chơi vài nốt nhạc có thể sẽ giúp qua thời gian. Ngoài ra, tất cả những cuốn sách hướng dẫn nhạc cổ đều chỉ ra rằng một đêm trăng sáng là thời điểm thích hợp nhất cho việc chơi loại nhạc cụ này. Ông đã chơi thất huyền cầm từ thời trẻ, vì nó chính là loại nhạc cụ yêu thích của Đức Khổng Tử, và nghiên cứu về nó là một phần của nền giáo dục văn hóa. Nhưng quan tòa đã không chạm vào những dây đàn trong nhiều năm rồi. Ông tò mò liệu mình có còn nhớ những ngón đàn phức tạp hay không.

ÔNG VUỐT QUA NHỮNG DÂY ĐÀN
Ông kéo cái bàn chơi nhạc tròn và đặt chiếc ghế gỗ mun đằng sau để ông có thể ngồi quay lưng vào tường. Xoa bóp các ngón tay tê cứng, ông kiểm tra nhạc cụ với vẻ thích thú. Hộp âm thuôn dài sơn mài màu đỏ tạo ra hợp âm có kích thước nhỏ, cho thấy cây đàn đặc biệt này ít nhất đã một trăm tuổi, và là một món đồ cổ có giá trị. Ông vuốt ngón tay trỏ qua liên tiếp bảy dây đàn. Cây đàn có một giai điệu sâu lắng không giống bình thường, dư âm của nó vang vọng trong căn phòng tĩnh lặng. Các phím điều chỉnh vẫn còn khoảng cách chính xác, điều này chứng tỏ cô gái hẳn đã đóng nó ngay trước khi chết. Trong khi điều chỉnh nó bằng cách di chuyển các phím mã não trên bàn tay phải, ông cố gắng nhớ lại một trong những giai điệu yêu thích của mình. Nhưng khi ông bắt đầu chơi đàn, ông sớm nhận ra rằng, mặc dù ông đã nhớ lại giai điệu khá rõ ràng, nhưng lại quên mất kỹ thuật gảy đàn. Ông mở ngăn kéo ra, nơi người chơi đàn thường cất giữ những bản nhạc của họ. Lật qua những trang giấy mỏng, ông chỉ tìm thấy những tác phẩm cổ điển khó, mấy cái đó đã vượt xa tầm của ông. Có một vài bản sao của những bản nhạc nổi tiếng 'Ba biến tấu hoa mận' chỉ là sự mong đợi của cô gái đã chết tôn thờ những bông hoa. Ở dưới cùng ngăn kéo, ông phát hiện ra bản nhạc của một giai điệu ngắn, khá đơn giản, mang tên "Mùa thu trong tim '. Ông chưa bao giờ nhìn thấy nó và các từ được viết bên cạnh bằng nét viết tay nhỏ nhắn với các ký hiệu hoàn toàn mới với ông. Một vài từ bị gạch chéo, và vài nốt nhạc đã được sửa chữa rải rác xung quanh. Rõ ràng đây là một trong những sáng tác của cô gái đã chết. Bản nhạc bao gồm hai phần:
Những chiếc lá vàng
Thả rơi lững lờ
Điểm trên chiếc áo
Mùa thu năm cũ đã qua.
Mùa thu lặng lẽ
Đè nặng trái tim
Trái tim khao khát
Kiếm tìm không nghỉ.
Những chiếc lá vàng
Cuốn theo cơn gió
Cơn sợ hãi qua đi
Đàn ngỗng mùa thu năm ngoái.
Liệu chúng có thể đưa tôi
Theo chuyến bay dài về nhà
Tới quê nhà ở chốn xa xôi
Nơi trái tim tìm thấy yên bình.
Ông chơi hết giai điệu một lần, thật chậm rãi, mắt dán vào bản nhạc. Có một âm điệu nhịp nhàng rất dễ dàng để ghi nhớ. Sau khi đã lặp đi lặp lại các nốt khó một vài lần, ông đã thuộc giai điệu. Ông nút chặt dây ở tay áo lông thú và chuẩn bị sẵn sàng để gảy đàn một cách nghiêm túc, khẽ ngẩng đầu về phía cảnh núi trăng sáng bên ngoài.
Đột nhiên, ông dừng lại. Ngay khóe mắt mình, ông thấy một cô gái mảnh mai, đứng cạnh góc trái bàn đọc sách. Bóng hình mờ mờ được bao phủ trong bóng tối, nhưng bờ vai xuôi, chiếc mũi cong và mái tóc chải ngược lên gọn gàng từ trán hiện ra rõ ràng trên bình phong dưới ánh trăng.
Bóng hình mờ nhạt nhập nhòa ở đó một lúc. Rồi nó biến mất vào bóng tối.
Quan tòa Địch ngồi bất động, đôi tay đặt trên dây đàn. Ông muốn cất tiếng gọi, nhưng có một cảm giác mắc nghẹn trong cổ họng. Sau đó, ông đứng dậy, bước vòng qua bàn để đàn và từ từ tiến vài bước về hướng góc bên trái, nơi bóng hình biến mất. Ông sửng sốt nhìn chằm chằm vào bàn đọc sách. Không có ai ở đó cả.
Ông xoa mặt. Chắc chắn đó là hồn ma của cô gái đã chết.
Với một nỗ lực lấy lại bình tĩnh, ông đẩy cửa trượt mở hẳn ra, và bước ra ngoài ban công hẹp. Ở đó, ông hít một hơi thật sâu không khí lạnh lẽo. Trong sự nghiệp lâu năm của mình, ông đã có dịp gặp nhiều hiện tượng ma quái, nhưng những thứ đó cuối cùng đều có một lời giải thích hoàn toàn tự nhiên. Tuy vậy, làm sao để giải thích một cách hợp lý sự hiện hình của cô gái đã chết mà ông vừa mới chứng kiến đây? Có thể nào nó vốn đã nằm trong tâm tưởng ông, giống như khi đi ngủ, ông nghĩ mình đã nghe thấy tiếng cô gái đã chết gọi? Nhưng kể từ lúc đó ông đã tỉnh táo lại, bây giờ ông cũng hoàn toàn tỉnh táo.
Chậm rãi lắc đầu, ông đi lại vào phòng, kéo cửa trượt đóng lại sau lưng. Ông lấy mồi lửa từ tay áo và thắp sáng đèn lồng nhỏ. Ông đã bình tâm trở lại. Sự hiện hình đầy ma quái chỉ có thể có nghĩa rằng: cô gái đã chết không bình thường trong căn phòng này. Linh hồn không yên nghỉ của cô vẫn đang quẩn quanh đây và cố gắng hiện ra, vượt qua rào cản ngăn cách cõi chết với dương trần. Khi ông đang ngủ, cô đã truyền được giọng nói của mình tới ông. Ngay mới đây thôi, khi ông đang tập trung tâm trí vào giai điệu cô tự sáng tác, sự kết nối bỗng nhiên được tạo ra, giúp cho cô có thể hiện hình trong một khoảnh khắc ngắn ngủi ở dương trần. Nhiệm vụ của ông đã rõ ràng. Ông lấy cái đèn và đi xuống cầu thang.
Tới tầng một ông dừng lại. Có một dải sáng từ khe dưới cửa căn phòng của người ốm. Ông nhón chân nhẹ nhàng và áp tai vào cánh cửa. Có tiếng giọng nói thì thầm, nhưng ông không thể nghe rõ từng lời được. Sau một lúc tiếng rì rầm biến mất. Rồi một người nào đó bắt đầu cất giọng thật nhỏ, giống như một câu thần chú ma thuật, hoặc một lời cầu nguyện.
Ông đi xuống đại sảnh. Đứng ở dưới chân cầu thang, ông giơ cao đèn lồng để soi đường. Ngoài cửa chính, ông nhớ mình đã nhìn thấy có một cánh cửa khác ở đó, phía sau ghế của ông khi ăn tối. Chắc nó là nhà nguyện ở sau đại sảnh mà ông Minh nói đến.
Ông đi qua đại sảnh và kéo cánh cửa ra. Nó không bị khóa. Khi ông mở nó ra, có mùi nhang trầm Ấn Độ sực nức lên cho thấy giả thuyết của ông đã đúng. Ông nhẹ nhàng đóng cánh cửa lại phía sau, và nhấc cao đèn lồng lên. Dựa vào bức tường phía sau của căn phòng nhỏ là một bàn thờ cao bằng gỗ sơn mài, trên đó có một bức tượng mạ vàng của Phật Bà Quan Âm. Trước tượng, ông nhìn thấy một lư hương bạc. Bốn que hương cắm ngập một nửa trong lư hương, vẫn đang cháy nghi ngút.
Quan tòa chăm chú quan sát những cây nhang. Rồi ông kéo một từ bó nhang mới nằm bên cạnh, và so sánh độ dài của nó với những cây trong lư. Nó mới cháy được một phần tư đốt tay. Điều đó có nghĩa là vừa mới có người tới thắp nhang trong nhà nguyện chưa lâu.
Ông trầm ngâm nhìn vào cái hòm hình chữ nhật bằng gỗ không sơn đặt trên hai cái ghế đỡ; đây là quan tài bằng gỗ tùng dùng đặt xác cô gái đã chết. Bức tường đối diện được phủ kín từ sàn đến sát trần bằng một tấm tranh thêu cổ, thêu cảnh Phật nhập Niết Bàn. Các Phật tử ngả hết xuống trong một hàng dài; đại diện của tất cả chúng sinh trong ba giới vây quanh đang than khóc trước chuyến đi của ngài.
Quan tòa đặt đèn lồng lên bàn thờ. Ông nghĩ vì cửa nhà nguyện không bị khóa, ai cũng có thể ra vào dễ dàng được. Đột nhiên ông có cảm giác khó chịu là mình đang không ở một mình. Tuy nhiên, không ai có thể trốn trong căn phòng nhỏ này được. Trừ khi có một không gian trống phía sau bức tranh tường. Ông bước lên, và dùng ngón trỏ đẩy nhẹ vào. Nó được treo trực tiếp dựa vào bức tường vững chắc. Ông nhún vai. Không có ai ở trong phòng lúc này, chỉ có ai đó đã đến nhà nguyện trước ông thôi. Tuy nhiên, tốt hơn ông nên nhanh chóng rời đi, vì người khách vô danh có thể trở lại.
Ông đi vòng qua đệm quỳ ở giữa sàn nhà, và dùng ánh sáng của đèn lồng để nhìn tổng quát chiếc quan tài. Nó dài khoảng sáu bước chân nhưng chỉ cao tương đương chiều dài hai bàn chân, vì vậy ông có thể kiểm tra xác chết mà không cần phải lấy nó ra khỏi quan tài. Ông hài lòng khi thấy nắp quan tài không bị đóng đinh, nó chỉ được gắn tạm bằng giấy dầu dán xung quanh. Nhưng cái nắp trông khá nặng, sẽ không dễ dàng để nhấc nó ra một mình.
Ông cởi chiếc áo khoác lông thú, gấp lại và đặt nó trên sàn nhà. Ông không cần nó, không khí rất ngột ngạt, căn phòng nhỏ này khá ấm. Rồi ông cúi xuống quan tài. Ngay khi ông đang kiểm tra các băng giấy, ông nghe thấy một tiếng thở dài.
Bất động một chút, ông căng tai lên, nhưng chỉ nghe thấy tiếng mạch máu đập thình thịch của chính mình. Nó chắc là tiếng xào xạc của bức tranh treo tường, vì ông nhận thấy có một chút không bình thường

Chương trước Chương sau