Kẻ tầm xương - Chương 06

Kẻ tầm xương - Chương 06

Kẻ tầm xương
Chương 06

Ngày đăng
Tổng cộng 37 hồi
Đánh giá 9.6/10 với 32971 lượt xem

Con ốc.”
Nhớ lại nguyên tắc nghiên cứu hiện trường vụ án cổ điển: Phân tích bằng chứng bất thường nhất đầu tiên.
Thom liên tục xoay xoay cái túi nhựa trên tay khi Rhyme nghiên cứu cái đinh vít, nửa gì nửa không. Cùn. Mòn.
“Anh chắc về dấu vân tay chứ? Anh đã dùng, chất thử vi hạt chưa? Đó là loại tốt nhất cho các vật chứng bị tiếp xúc với các nguyên tố.”
“Đúng”, Mel Cooper khẳng định.
“Thom”, Rhyme hạ lệnh, “bỏ cái tóc này khỏi mắt tôi! Trả nó lại chỗ cũ. Tôi đã nói với cậu chải lại nó sáng nay rồi”.
Người trợ lý thở dài và chải mớ tóc đen rối bù. “Cẩn thận”, anh ta thầm thì oán giận với ông chủ của mình và Rhyme lại hất đầu một cách thô bạo, làm cho tóc càng rối hơn. Amelia Sachs sưng sỉa ngồi ở góc phòng. Chân cô đặt dưới ghế trong tư thế xuất phát của vận động viên chạy nước rút, và chắc chắn là cô ta trông như thể đang chờ tiếng súng xuất phát.
Rhyme quay lại với con ốc.
Khi còn lãnh đạo IRD, Rhyme bắt đầu xây dựng cơ sở dữ liệu. Ví dụ như chỉ mục sơn xe hơi liên bang hay hồ sơ thuốc lá BATF[47]. Anh thiết lập hồ sơ tiêu chuẩn đạn, sợi, vải, lốp xe, giày, công cụ, dầu xe, dầu hộp số. Anh dành hàng trăm giờ biên soạn các danh mục, đặt chỉ mục và tham chiếu chéo.
Dù vậy, ngay cả trong thời kỳ cầm quyền mê đắm của Rhyme, IRD cũng chưa bao giờ lập catalog cho dụng cụ. Anh băn khoăn tại sao lại không làm như vậy, anh tự giận mình vì không dành thời gian để làm, và còn tức giận Peretti hơn nữa vì anh ta cũng không nghĩ tới điều đó.
“Ta phải gọi cho tất cả các nhà sản xuất và buôn bán ốc vít khu Đông Bắc. Không, cả nước. Hỏi xem họ có làm loại ốc nào như thế này không và họ bán nó cho ai. Hãy gửi fax các bản miêu tả và ảnh của con ốc cho nhân viên điều phối của chúng ta ở Phòng Truyền thông.”
“Quỷ thật, có thể phải là hàng triệu”, Banks nói. “Từng cửa hàng Ace Hardware và siêu thị Sears trên toàn quốc.”
“Tôi không nghĩ vậy”, Rhyme trả lời. “Đó phải là một dấu tích có ý nghĩa. Hắn sẽ không để nó lại nếu nó vô dụng. Nguồn cung cấp những con ốc này chắc cũng có hạn thôi. Tôi cá với anh đấy.”
Sellitto gọi điện và ngẩng lên sau vài phút. “Tôi đã có điện thoại viên cho anh rồi đây, Lincoln. Bốn người. Chúng tôi lấy danh sách các nhà sản xuất ở đâu?”
“Cho nhân viên tuần tra đến Phố Bốn mươi hai.” Rhyme trả lời. Thư viện công cộng. Ở đó họ có danh bạ điện thoại của các công ty. Trước khi lấy được nó, hãy để điện thoại viên của chúng ta dùng Những Trang Vàng Kinh Doanh.”
Sellitto nhắc lại vào điện thoại.
Rhyme nhìn đồng hồ. Một giờ ba mươi.
“Còn bây giờ là sợi abestos.”
Trong một khoảnh khắc, từ này rực sáng trong đầu anh. Anh cảm thấy choáng váng – nơi mà không thể cảm thấy choáng váng được. Abestos thì có gì quen thuộc nhỉ? Điều gì đó mà anh vừa mới đọc hay nghe được – mới đây thôi, mặc dù Lincoln Rhyme không còn tin tưởng vào cảm nhận thời gian của mình nữa. Khi ta nằm đông cứng một chỗ từ tháng này qua tháng khác, thời gian trôi đi chậm chạp gần như chết. Anh có thể nghĩ tới một số thứ mà anh đã đọc được cách đây hai năm.
“Ta biết gì về abestos?” Anh đăm chiêu. Không ai trả lời câu hỏi này, nhưng không quan trọng; anh sẽ tự trả lời. Như anh vẫn thường thích làm. Abestos là một phân tử phức hợp, polime sillic. Nó không cháy, vì giống như kính, nó đã bị oxy hóa hoàn toàn.
Khi anh khám nghiệm hiện trường vụ án của những vụ giết người ngày trước – làm việc với các nhà pháp y học, nhân chủng học và các bác sĩ nha khoa – Rhyme thường thấy mình ở trong các tòa nhà được bao bọc abestos. Anh nhớ cái vị đặc biệt của những chiếc mặt nạ họ phải đeo trong khi dọn dẹp abestos ở ga tàu điện ngầm City Hall ba năm rưỡi trước, tại đó nhân viên tìm thấy xác của một trong những cảnh sát bị Dan Shepherd giết và vứt vào phòng máy nổ. Khi Rhyme chậm chạp cúi xuống để nhặt sợi từ chiếc áo khoác màu xanh dương nhạt của viên sĩ quan, anh nghe thấy tiếng gãy và tiếng rắc của thanh xà gỗ sồi. Chiếc mặt nạ có thể đã cứu anh không bị ngạt thở đến chết trong đám bụi bặm và bùn đất xung quanh.
“Có thể hắn đưa cô ta đến một công trường phá dỡ”, Sellitto nói.
“Có thể”, Rhyme đồng ý.
Sellitto ra lệnh cho người trợ lý trẻ tuổi của mình. “Gọi EPA[48] và Sở Môi trường Thành phố. Tìm xem có công trường phá dỡ nào đang được tiến hành ngay lúc này không.”
Viên thám tử gọi điện.
“Bo”, Rhyme gọi Haumann, “đội của cậu đã sẵn sàng triển khai chưa?”
“Sẵn sàng chiến đấu.” Viên đội trưởng ESU khẳng định. “Dù vậy tôi vẫn phải nói rằng chúng tôi chỉ có một nửa lực lượng vì phải phục vụ cho hội nghị của Liên Hiệp Quốc. Họ bị Ủy ban Mật vụ và An ninh của Liên Hiệp Quốc mượn.”
“Tôi đã có vài thông tin về EPA ở đây.” Banks ra hiệu cho Haumann và họ đi ra góc phòng. Họ dẹp sang bên một vài chồng sách. Khi Haumann trải một trong những tấm bản đồ chiến thuật New York của ESU lên bàn, có thứ gì đó rơi xuống nền nhà.
Banks nhảy dựng lên. “Chúa ơi.”
Từ góc nhìn nơi anh đang nằm, Rhyme không thể thấy cái gì vừa bị rơi. Haumann chần chừ một giây, sau đó cúi xuống để nhặt lên một đoạn xương sống đã bạc màu và đặt nó lên mặt bàn.
Rhyme cảm thấy ánh mắt vài người nhìn anh nhưng anh không nói gì về khúc xương. Haumann cúi người nhìn tấm bản đồ, Banks cũng vậy, đang nghe điện thoại và cung cấp cho Haumann thông tin về các công trường thu dọn abestos. Viên chỉ huy đánh dấu chúng bằng bút sáp. Có vẻ như có rất nhiều công trường, tản mát ở khắp năm quận của thành phố. Tình hình không mấy khả quan.
“Ta phải tiếp tục khoanh vùng gọn hơn. Xem nào, cát”, Rhyme nói với Cooper. “Phóng đại lên xem. Nói cho tôi biết anh nghĩ gì.”
Sellitto chuyển cái phong bì đựng vật chứng cho kỹ thuật viên, anh này đổ những thứ bên trong vào một cái khay khám nghiệm tráng men. Chất bột lóng lánh để lại một đám mây bụi nhỏ. Ở giữa có một hòn đá, đã bị bào mòn, nó lăn vào giữa đống cát.
Cổ họng Lincoln Rhyme nghẹn lại. Không phải vì những gì anh thấy – anh vẫn chưa biết anh đang nhìn vào cái gì – nhưng vì một xung thần kinh đứt đoạn phóng ra từ não anh và tắt ngấm nửa đường khi đến cánh tay phải vô dụng, thúc bách cầm lấy một cái bút chì và thử. Lần đầu tiên trong thời gian khoảng một năm, anh cảm thấy sự thúc bách đó. Điều này suýt làm anh phát khóc và niềm an ủi duy nhất của anh là ký ức về cái lọ nhỏ đựng Seconal, cái túi nhựa mà bác sĩ Berger mang theo, những hình ảnh bay lượn trong phòng như thiên thần hộ mệnh.
Anh hắng giọng. “Lấy thử dấu tay đi.”
“Cái gì?” Cooper hỏi lại.
“Hòn đá.”
Sellitto nhìn anh dò hỏi.
“Hòn đá ở đó không hợp”, Rhyme nói. “Táo và cam. Tôi muốn biết vì sao. Lấy dấu đi.”
Sử dụng một cái kẹp có đầu bằng sứ, Cooper nhấc hòn đá lên và nghiên cứu nó. Anh ta đeo kính, dùng chiếc đèn PoliLight chiếu vào hòn đá – bộ đèn có ắc quy lớn như ắc quy xe hơi với một cây đũa thần gắn ở đó.
“Chẳng có gì”, Cooper nói.
“VMD?”
VMD, lắng chân không kim loại là kỹ thuật hiển thị vân tay ẩn trên những bề mặt không xốp. Nó làm bay hơi vàng hay kẽm trong một buồng chân không có chứa đối tượng cần kiểm tra; kim loại sẽ phủ lên dấu vân tay ẩn, làm thấy rõ hoa tay và những điểm đỉnh.
Nhưng Cooper không đem theo máy VMD.
“Vậy thì anh có gì?” Rhyme hỏi, vẻ không vui.
“Sudan đen, thuốc tráng phim ổn định, iodine, amido đen, DFO và thuốc nhuộm chữa bỏng, Magna-Brush.”
Anh ta còn đem theo ninhydrin để phát hiện dấu tay trên những bề mặt xốp và khuôn Keo Siêu dính cho những bề mặt nhẵn. Rhyme nhớ lại những tin tức chấm động đã tràn qua cộng đồng giám định vài năm trước: Một kỹ thuật viên làm việc trong phòng thí nghiệm giám định của quân đội Mỹ ở Nhật bản đã dùng Keo Siêu dính để sửa chiếc máy quay bị vỡ của mình và vô cùng ngạc nhiên khi thấy khói bốc lên từ chất keo dính đã làm hiện ra dấu tay tốt hơn phần lớn các loại hóa chất được tạo ra cho mục đích này.
Đó chính là phương pháp Cooper sử dụng. Dùng một cái kẹp, anh ta đặt hòn đá vào một hộp thủy tinh nhỏ và rỏ một ít keo vào cái đĩa nóng đặt bên trong. Vài phút sau, anh ta lấy hòn đá ra.
“Ta có gì đó rồi đây này”, anh ta phủ một lớp bụi UV bước sóng dài lên hòn đá và dùng đèn PoliLight soi vào nó. Có thể nhìn thấy rõ ràng một dấu vân tay. Đúng trung tâm. Cooper chụp ảnh nó bằng một cái máy Palaroid CU-5, tỷ lệ 1:1. Anh ta đưa bức ảnh cho Rhyme.
“Đưa nó lại gấn hơn tí nữa.” Rhyme liếc mắt khi xem bức ảnh. “Đúng rồi! Hắn ta đã xoay nó.”
Dấu vân tay xoay – xoa ngón tay lên một bề mặt – tạo ra ấn tượng khác so với khi nhặt vật thể đó lên. Đó là một khác biệt rất nhỏ – ở chiều rộng giữa các đường vân tại những điểm khác nhau của sơ đồ vân tay – nhưng là sự khác biệt mà Rhyme có thể nhìn thấy rất rõ.
“Nhìn này, cái gì đây?” Anh đăm chiêu. “Đường kẻ này.” Có một dấu hiệu hình vòng cung mờ nhạt bên trên dấu vân tay.
“Nó trông giống như là…”
“Đúng thế”, Rhyme nói, “móng tay của cô ấy. Thường thì ta sẽ không có dấu hiệu này. Nhưng tôi cá là hắn đặt hòn đá để người ta nhặt nó. Nó để lại một vết hằn nhờn dầu. Giống như vân tay.”
“Vì sao hắn làm thế?” Sachs hỏi.
Lại phật ý vì xem ra chẳng có ai hiểu ra vấn đề nhanh như mình, Rhyme cục cằn giải thích: “Hắn nói với ta hai điều. Thứ nhất, hắn muốn ta biết nạn nhân là phụ nữ. Trong trường hợp ta không liên kết được cô ta với các xác sáng nay.”
“Hắn làm thế để làm gì?” Banks hỏi.
“Trộn đỗ với thóc.” Rhyme nói.”Để làm ta toát thêm ít mồ hôi. Hắn cho ta biết có một người phụ nữ đang gặp nguy hiểm. Hắn đánh giá nạn nhân – như tất cả chúng ta làm – kể cả khi chúng ta nói là chúng ta không làm vậy.” Rhyme tình cờ nhìn vào tay Sachs. Anh ngạc nhiên khi thấy rằng, một người phụ nữ đẹp như Sachs mà các ngón tay lại xấu tệ hại. Bốn đầu ngón tay dán băng Band-Aid và mấy ngón khác bị gặm đến tận thịt. Lớp biểu bì ở một ngón bị phủ một lớp máu nâu. Anh còn nhận thấy da dưới lông mày cô bị viêm đỏ, do bị kéo, anh đoán. Và một dấu xước cạnh tai cô. Tất cả những thói quen tự hủy hoại. Có hàng triệu cách để phê, ngoài thuốc và rượu Armagnac.
Rhyme nói: “Có một điều nữa hắn nói với chúng ta mà tôi đã cảnh báo trước với các anh. Hắn biết chứng cứ. Hắn đang nói. Đừng quan tâm đến những vật chứng pháp lý thông thường. Tôi cũng sẽ không để lại gì. Tất nhiên đó là điều hắn nghĩ. Nhưng chúng ta sẽ tìm thấy gì đó. Tôi cá là chúng ta sẽ thấy.” Đột nhiên Rhyme nhăn mặt. “Bản đồ! Ta cần bản đồ. Thom!”
Người trợ lý buột miệng: “Bản đồ nào?”
“Cậu biết ý tôi nói cái bản đồ nào mà.”
Thom thở dài. “Tôi chịu, Lincoln.”
Nhìn ra cửa sổ và nói, một nửa là với chính mình, Rhyme đăm chiêu. “Cầu vượt qua đường ray, đường hầm buôn rượu lậu và những cánh cửa ra vào, abestos – đều là những thứ cũ. Hắn thích New York lịch sử. Tôi muốn bản đồ Randel.”
“Ở đâu?”
“Hồ sơ nghiên cứu cho cuốn sách của tôi. Còn ở đâu được nữa hả?”
Thom lục lọi trong đống cặp hồ sơ và lấy ra một bản sao của một tấm bản đồ Manhattan dài, nằm ngang. “Cái này à?”
“Cái đó, đúng rồi!”
Đó là Khảo sát của Randel, vẽ năm 1811 cho các ủy viên Hội đồng thành phố quy hoạch mạng lưới phố xá của Manhattan. Tấm bản đồ được in ngang, với Công viên Battery, phía nam, bên trái và Harlem, phía bắc, sang phải. Vẽ theo cách này, hòn đảo tạo thành một con chó đang nhảy lên, cái đầu hẹp của nó ngẩng lên, chuẩn bị tấn công.
“Gắn nó lên đây. Tốt.”
Trong khi viên trợ lý làm, Rhyme nói: “Thom, chúng ta sẽ cử cậu làm đại diện. Đưa cho anh ta một cái phù hiệu bóng loáng hay cái gì đó đi, Lon.”
“Lincoln”, cậu ta lắp bắp.
“Chúng tôi cần cậu. Nào. Chẳng phải là lúc nào cậu cũng muốn trở thành Sam Spade[49] hay Kojak[50] đó sao?”
“Chỉ là Jury Garland[51] thôi.” Người trợ lý đáp lời.
“Thế thì là Jessica Fletcher[52] vậy. Cậu sẽ viết hồ sơ. Làm đi, lấy cái bút Mont Blanc lúc nào cũng dính trong túi áo cậu ra đi.”
Chàng thanh niên đảo mắt khi cậu ta lấy cái bút Parker ra và nhặt một cuốn sổ màu vàng từ chồng sách vở dưới một cái bàn.
“Không, tôi có ý hay hơn”, Rhyme tuyên bố. “Treo một trong những bức tranh kia lên. Những bức tranh nghệ thuật ấy. Xoay ngược nó lại rồi viết ra mặt sau bằng bút đánh dấu. Viết thật to vào. Để tôi còn đọc được.”
Thom chọn bức tranh hoa huệ tây của Monet, dán lên tường.
“Trên cùng”, nhà hình sự học nói, “viết ‘Đối tượng 823’ sau đó kẻ bốn cột. ‘Ngoại hình. Nơi ở. Phương tiên đi lại. Khác.’ Đẹp rồi. Giờ thì bắt đầu thôi. Chúng ta biết gì về hắn ta?”
Sellitto nói: “Phương tiện đi lại… Hắn ta có chiếc Yellow Cab.”
“Đúng thế. Và trong cột ‘Khác’ cần thêm hắn ta biết quy trình khám nghiệm hiện trường.”
Sellitto nói: “Điều đó có thể có nghĩa là hắn đã từng gặp chuyện rắc rối.”
“Thế nghĩa là gì?” Thom hỏi.
“Có nghĩa là hắn có thể có tiền án.” Viên thám tử giải thích.
Banks nói: “Ta có cần thêm là hắn có khẩu Colt cỡ .32 không?”
“Mẹ kiếp, có”, sếp của anh ta khẳng định.
Rhyme đóng góp: “Và hắn biết về FRs…”
“Cái gì?” Thom hỏi.
“Vân ma sát – dấu vân tay. Cậu biết đấy, đó là những đường vân trên bàn tay và chân chúng ta để tạo ma sát. Và viết thêm là có thể hắn ta có khả năng hành động từ một nơi ẩn nấp an toàn. Tốt lắm, Thom. Nhìn cậu ta này. Cậu ta quả là một người thực thi pháp luật nhà nòi.”
Thom đỏ mặt, rời khỏi bức tường, phẩy mạng nhện vương trên chiếc áo sơ mi.
“Đây rồi, anh em”, Sellitto nói. “Hình ảnh đầu tiên của chúng ta về Ngài 823.”
Rhyme quay về phía Mel Cooper. “Còn bây giờ là cát. Chúng ta có thể nói gì về nó nhỉ?”
Cooper kéo cái kính lên vầng trán nhợt nhạt của anh ta. Anh ta đổ một mẫu vào thanh trượt, đẩy nó xuống dưới cái kính hiển vi ánh sáng phân cực rồi điều chỉnh núm điều khiển.
“Hừm. Lạ thật. Không thấy có khúc xạ đúp.”
Kính hiển vi phân cực cho thấy khúc xạ đúp của tinh thể hay sợi và một số vật liệu khác. Cát bãi biển có tính khúc xạ đúp lớn.
“Thế thì không phải cát”, Rhyme lẩm bẩm. “Đó là một thứ bị xay nhỏ… Anh có thể nhận dạng cá thể được không?”
Nhận dạng cá thể… Mục tiêu của nhà hình sự học. Phần lớn vật chứng có thể được nhận dạng. Nhưng ngay cả khi ta biết được đó là gì, nó có thể xuất phát từ hàng trăm hay hàng nghìn nguồn. Vật chứng đã được nhận dạng cá thể là một thứ mà chỉ có thể xuất phát từ một nguồn hay một số lượng nguồn rất hạn chế. Một dấu vân tay, một hồ sơ DNA, một mẩu sơn vừa vào chỗ tróc trên xe của nghi phạm giống như một mảnh của một bức tranh đố ghép hình.
“Có thể”, kỹ thuật viên trả lời. “Nếu tôi có thể xác định được đó là cái gì.”
“Bột kính nghiền?” Rhyme gợi ý.
Kính về bản chất là cát bị nung chảy nhưng quá trình chế tạo kính đã thay đổi cấu trúc tinh thể. Bột kính nghiền không khúc xạ đúp. Cooper cẩn thận nghiên cứu mẫu.
“Không, tôi không nghĩ đó là kính. Tôi không biết nó là cái gì. Giá mà tôi có EDX[53] ở đây.”
Một công cụ thông dụng trong phòng thí nghiệm hình sự là kính hiển vi quét điện tử kết hợp với một thiết bị tia X phân tán năng lượng; nó xác định thành phần hóa học của các mẫu dấu vết được tìm thấy tại hiện trường vụ án.
“Tìm cho anh ta một cái”, Rhyme ra lệnh cho Sellitto, sau đó nhìn quanh phòng. “Chúng ta cần thêm thiết bị. Tôi muốn có thêm cả thiết bị lấy dấu vân tay chân không kim loại. Và GC-MS[54].” Một loại máy sắc ký khí dùng để phân tách các hợp chất thành những nguyên tố thành phần và quang phổ kế ánh sáng để nhận dạng từng nguyên tố. Những thiết bị này cho phép các nhà hình sự học kiểm tra một mẫu chưa biết với khối lượng nhỏ tới một phần triệu g và tìm kiếm nó trong một cơ sở dữ liệu hàng trăm nghìn các hợp chất đã biết, được phân loại theo nhận dạng và tên nhãn hiệu.
Sellitto gọi điện tới phòng thí nghiệm CSU thông báo danh mục thiết bị cần thiết.
“Nhưng ta không thể đợi tới khi có đồ, Mel. Anh phải làm theo cách truyền thống thôi. Nói cho tôi thêm một chút về cái thứ cát rởm của chúng ta nào.”
“Nó lẫn một ít bụi. Có đất mùn, những đốm thạch anh, chất feldspar và mica. Có rất ít mảnh lá cây và thực vật phân rã. Một số đốm có thể là bentonite.”
“Bentonite.” Rhyme thỏa mãn. “Đó là tàn tro núi lửa mà các nhà xây dựng sử dụng trong hồ xi măng khi họ đào móng trong những vùng có nước của thành phố, nơi nền đá ở rất sâu. Dùng chống xói mòn. Vậy chúng ta phải tìm những công trường xây dựng gần nước, có thể ở phía nam Phố Ba mươi tư. Phía Bắc, vùng đó nền đá khá gần mặt đất nên họ không cần dùng hồ xi măng.”
Cooper xê dịch thanh trượt. “Nếu phải đoán, tôi sẽ nói rằng đó chủ yếu là calcium. Đợi chút, ở đây có gì đó dạng sợi.”
Cái núm lại bị xoay và Rhyme sẽ trả mọi thứ để có thể được nhìn vào cái ống ngắm kia. Nhớ lại tất cả những buổi tối anh dán mắt vào cái viền ống ngắm cao su màu xám, quan sát sợi hay những mẩu vỏ bào kim loại trôi ra trôi vào tiêu điểm.
“Ở đây còn mấy thứ nữa. Hạt lớn. Ba lớp. Một giống như cái loa kèn. Sau đó là hai lớp calcium. Màu sắc hơi khác nhau. Những mẩu khác trong suốt.”
“Ba lớp?” Rhyme giận dữ quát lên. “Của nợ, đấy là vỏ sò.” Anh cảm thấy bực tức với bản thân. Anh phải nghĩ tới điều đó chứ.
“Đúng rồi, nó đấy.” Cooper gật đầu. “Tôi nghĩ là con hàu.”
Những bãi hàu quanh thành phố chủ yếu nằm ngoài bờ biển Long Island và New Jersey. Rhyme đã hy vọng là nghi phạm hạn chế khu vực địa lý cần tìm kiếm trong Manhattan – nơi nạn nhân được tìm thấy sáng nay. Anh lẩm bẩm: “Nếu hắn mở rộng ra cả thành phố thì việc tìm kiếm là vô vọng.”
Cooper nói: “Tôi đang nhìn thấy một thứ khác. Tôi nghĩ đấy là đá vôi. Rất cổ. Dạng hạt.”
“Có thể là bê tông.” Rhyme gợi ý.
“Có thể. Đúng.”
“Thế thì tôi không hiểu vỏ sò”, Cooper nói thêm, vẻ trầm ngâm. “Những bãi sò quanh New York đầy bùn và thực vật. Thứ này bị trộn lẫn với bê tông và thực sự là không hề có chất gì liên quan đến thực vật.”
Bất thình lình Rhyme quát lên: “Cạnh! Cạnh của cái vỏ sò ấy như thế nào, Mel?”
Nhân viên kỹ thuật nhìn vào ống ngắm: “Đứt đoạn, không bị mòn. Nó bị tán vụn dưới áp lực. Không bị nước bào mòn.”
Ánh mắt Rhyme trượt sang tấm bản đồ Randel, quét từ phải sang trái. Tập trung vào vùng mông con chó đang nhảy.
“Có rồi!” Anh hét lên.
Năm 1913, F.W. Woolworth xây một cấu trúc sáu mươi tầng đến bây giờ vẫn còn mang tên ông, bọc gốm, được bao phủ bởi miệng máng xối và điêu khắc gothic. Trong suốt mười sáu năm, đó là tòa nhà cao nhất thế giới. Vì nền đá ở khu vực này của Manhattan nằm cách Broadway ba mươi mét, những người công nhân đã phải đào đường trục rất sâu để neo tòa nhà. Không lâu sau khi động thổ, những người công nhân đã tìm thấy thi hài của nhà công nghiệp Manhattan, Talbott Soames, người bị bắt cóc năm 1906. Xác của ông ta bị chôn trong một bãi dày, một thứ trông giống như cát nhưng thực ra là vỏ sò bị nghiền nát, một việc mà báo chí lá cải đã làm ầm ĩ, nhắc đến sự đam mê của nhà tư bản đối với đồ ăn ngon. Vỏ sò rất phổ biến dọc theo mũi thấp phía đông Manhattan đến mức chúng được sử dụng để lấn biển. Đó cũng là lý do Phố Pearl[55] lại được đặt tên như vậy.
“Cô ta ở đâu đó trong khu trung tâm.” Rhyme tuyên bố. “Có thể ở phía đông. Cũng có thể gần phố Pearl. Cô ta đang ở dưới lòng đất, sâu khoảng năm đến mười lăm feet. Có thể là một công trường xây dựng, có thể là một tầng hầm. Một tòa nhà cũ hay một đường hầm.”
“Kiểm tra chéo bản đồ của EPA đi Jerry”, Sellitto ra lệnh. “Những chỗ họ dọn dẹp abestos.”
“Trên phố Pearl? Không có gì.” Viên sĩ quan trẻ nâng tấm bản đồ mà anh ta và Haumann đang nghiên cứu lên. “Có khoảng ba tá công trường phá dỡ – ở Midtown, Harlem và Bronx. Nhưng ở trung tâm không có gì.”
“Abestos… abestos…”, Rhyme lại trầm ngâm. Có gì đó rất quen ở đây.
Đã là 2:05.
“Bo, ta phải đi thôi. Hãy đưa người của anh tới đó và bắt đầu tìm kiếm. Tất cả các tòa nhà dọc theo Phố Pearl. Cả Phố Water nữa.”
“Trời”, viên cảnh sát thở dài, “thế thì rất nhiều.” Anh ta ra đến cửa.
Rhyme nói với Sellitto: “Lon, tốt hơn là anh cũng nên đi. Sẽ là cuộc chạy đua sát nút đấy. Họ cần tất cả những nhân viên truy tìm mà họ có thể có. Amelia, tôi muốn cả cô cũng đi.”
“Nhưng này, tôi đang nghĩ xem…”
“Sĩ quan”, Sellitto quát, “đây là mệnh lệnh…”.
Một ánh hồng nhạt đảo qua khuôn mặt xinh đẹp của cô.
Rhyme hỏi Cooper: “Mel, anh đến đây bằng xe bus à?”
“RRV[56]”, anh ta trả lời.
Những chiếc xe bus thành phố dành cho hiện trường vụ án lớn là những chiếc xe tải lớn – chứa đầy thiết bị và vật tư phục vụ cho việc thu nhập chứng cứ, được trang bị tốt hơn phòng thí nghiệm của những thành phố nhỏ. Nhưng khi Rhyme điều hành IRD, anh đã đặt mua những chiếc xe phục vụ hiện trường vụ án nhỏ hơn – những chiếc xe kiểu wagon – với những thiết bị thu nhập và phân tích cơ bản nhất. Những chiếc RRV trông bình thường nhưng Rhyme đã bắt Phòng Vận chuyển gắn cho chúng động cơ turbo của Đội Cảnh sát Cơ động. Chúng thường vượt xe của Đội Tuần tra để đến hiện trường trước; đã có lần sĩ quan đầu tiên đến hiện trường lại là những kỹ thuật viên hiện trường dày dạn. Đó chính là giấc mơ của mọi công tố viên.
“Đưa chìa khóa cho Amelia.”
Cooper đưa chìa khóa cho Sachs, cô lườm anh, sau đó ra khỏi phòng và chạy xuống cầu thang. Ngay cả tiếng bước chân của cô nghe cũng có vẻ giận dữ.
“Được rồi, Lon. Anh nghĩ gì?”
Sellitto nhìn hành lang trống rỗng và lại gần Rhyme. “Anh thực sự muốn có P.D cho vụ này à?”
“P.D?”
“Ý tôi là cô ta. Sachs. P.D là biệt hiệu.”
“Cho cái gì?”
“Đừng nói điều đó với cô ta. Bỏ cô ta đi. Cha cô ta là một cảnh sát tuần tra trong bốn mươi năm. Đó là lý do vì sao cô ta được gọi là P.D (Con gái cớm tuần tra).”
“Anh không nghĩ rằng tôi nên chọn cô ta?”
“Không. Tôi không nghĩ thế. Vì sao anh lại muốn cô ta?”
“Vì cô ta đã trèo xuống một bờ ngăn cao ba mươi feet để bảo vệ hiện trường vụ án. Cô ta phong tỏa đại lộ chính và đường ray của Amtrak. Đó là sáng kiến.”
“Thôi nào, Linc. Tôi biết hàng chục cảnh sát đã làm như thế.”
“Được rồi, cô ta là người tôi muốn.” Rhyme ném cho Sellitto một cái nhìn nghiêm nghị, nhắc nhở anh ta, tế nhị không tranh cãi, về những điều khoản trong thỏa thuận của họ.
“Điều tôi muốn nói là”, viên thám tử nói nhỏ, “tôi vừa mới nói chuyện với Polling. Peretti đang cay cú vì bị gạt sang một bên và nếu – không, tôi nói là khi nào – hắn biết ai đó trong Đội Tuần tra đi xử lý hiện trường thì khi đó sẽ rắc rối to.”
“Chắc là vậy”, Rhyme nói nhẹ nhàng, vẫn nhìn vào tấm áp phích hồ sơ, “nhưng tôi có cảm giác đó là ngày ít rắc rối nhất của chúng ta”.
Và anh ngửa cái đầu mệt mỏi của mình xuống chiếc gối dày phía dưới.


Chú thích
[47] BAFT (viết tắt của Bereau of Alcohol, Tobacco, Firearms and Explosives): Cục Phụ trách các vấn đề về rượu, thuốc lá, vũ khí và chất nổ, một tổ chức của chính phủ Mỹ.
[48] EPA (viết tắt của Environmental Protection Agency): Cục Bảo vệ Môi trường.
[49] Sam Spade: Tên của những nhân vật thám tử trên truyền hình hay truyện tranh.
[50] Kojak: Tên của những nhân vật thám tử trên truyền hình hay truyện tranh.
[51] Jury Garland: Tên của những nhân vật thám tử trên truyền hình hay truyện tranh.
[52] Jessica Beatrice Fletcher: Một nhân vật hư cấu trong series chương trình truyền hình của Mỹ: Murder, she wrote.
[53] EDX (viết tắt của Energy dispersive X-ray spectroscopy): Một phương pháp phân tích trong ngành hóa học.
[54] GC-MS: Xem phần phụ lục.
[55] Pearl: Ngọc trai.
[56] RRV (viết tắt của Rapid Response Vehicles): Những chiếc xe phản ứng nhanh.

Chương trước Chương sau