Kẻ phụng sự thầm lặng - Chương 13
Sân Bay Ben, Guiron
Ngày đăng 09-01-2016
Tổng cộng 64 hồi
Đánh giá 8.3/10 với 63316 lượt xem
Mười giờ 47 phút thứ năm.
Phòng chờ VIP trống không khi Gabriel đến sân bay Ben Guiron buổi tối hôm đó. Anh đi bộ một mình dọc theo hành lang dài màu trắng rồi bước ra ngoài trời đêm lạnh giá. Chiếc xe Limousine bọc thép của Shamron đang đỗ trong vòng xoay giao thông, khói thuốc thoang thoảng bay qua cửa sổ sau đang hé mở. Đỗ phía sau là một chiếc xe thứ hai chở đầy nhân viên an ninh trẻ tuổi như một cách phụ hoạ ý nhị cho những kỳ công quan trọng của đời ông. Shamron đã trải qua cả tuổi già với những cậu bé mang súng. Gabriel sợ rằng đó cũng sẽ là số phận của mình.
Anh leo vào ghế sau chiếc Limousine rồi đóng cửa. Shamron im lặng nhìn anh, rồi giơ bàn tay có lốm đốm vì bệnh gan ra hiệu tài xế cho xe chạy. Một lúc au, khi xe họ chạy vào khu đồi Judean theo hướng Jerusalem, ông đặt một xấp báo Israel vào lòng Gabriel: Haaretz, Maariv, Yedoit Aharonot, tờ Bưu điện Jerusalem. Ảnh của Gabriel xuất hiện trên trang đầu mỗi tờ báo.
“Tôi cử cậu đi Amsterdam vài ngày để đọc tài liệu một cách bí mật, nhưng rồi anh mang đến cho tôi gì đây? Cậu biết đấy, Gabriel, có nhiều cách dễ dàng hơn để từ chối ăn tối với ngài Thủ tướng mà”.
“Thực ra tôi luôn mong có dịp đó”.
Shamron nhìn anh hồ nghi. “Ít ra thì giọng điệu của những bài báo này khá tích cực – không như đòn đau mà ta thường hứng chịu khi điệp viên của ta phải phơi bày trước công luận. Một lần nữa, cận là anh hùng quốc gia. Tờ Haaretz đã gọi cậu là “Siêu điệp viên không bí mật lắm của Israel”. Đó là thứ tôi thích nhất”.
“Tôi mừng là ông thấy tất cả chuyện này thú vị đến thế”.
“Tôi nghĩ chuyện cũng thú vị”, Shamron nói. “Chúng ta có bước đi có một không hai là cử anh đi Luân Đôn để bảo đảm cho người Anh hiểu được tính nghiêm túc trong cảnh báo của chúng ta. Họ quyết định bỏ qua cảnh báo đó và kết quả là vụ đánh bom huỷ diệt ở đường xe điện ngầm và con gái ngài đại sứ Hoa Kỳ đang nằm trong tay bọn khủng bố Hồi giáo”.
“Chưa tính 6 nhà ngoại giao và nhân viên an ninh Hoa Kỳ đã chết”.
“Đúng vậy, mọi người có vẻ như đã quên họ”. Shamron châm tiếp điếu thuốc nữa. “Làm sao cậu biết họ sẽ bị sát hại trong công viên Hyde Park?”.
“Tôi không biết. Chỉ là một giả thiết không may cuối cùng lại hoá ra là đúng”.
“Cái gì dẫn cậu đến giả thiết này?”.
Gabriel kể cho ông ta hình ảnh trên tập hồ sơ mà anh lấy từ căn hộ của Samir Al Masri ở Amsterdam. Shamron mỉm cười. Ông xem trí nhớ hoàn hảo của Gabriel là một trong những ưu điểm nổi bật nhất của anh. Gabriel đã đến với ông với một cỗ máy đã có sẵn nhưng chính Shamron đã dạy anh cách sử dụng nó.
“Do đó cậu đã báo động cho họ không phải một mà hai lần?”. Shamron nói. “Không lạ gì khi người Anh đang hành xử như những tên ngốc trong những cuộc đàm phán để trả tự do cho cậu. Tôi có ấn tượng rằng họ đang sử dụng việc bắt giữ và bỏ tù cậu để gây áp lực cho chúng ta”.
“Vì mục đích gì?”.
“Để việc làm chứng của cậu trong việc thẩm vấn về vụ tấn công này không phản ánh được thực chất của hai cuộc trò chuyện giữa cậu với Graham Seymour”.
“Seymour đang che đậy sai lầm của mình à?”.
“Ông ấy đã đến được vòng cuối cùng trong sự nghiệp lâu dài và nổi bật của mình. Hầu như ông ấy có thể nhìn thấy căn nhà của mình ở miền quê, với cấp bậc hiệp sĩ và một chỗ ngồi thoải mái trong ban điều hành một cơ quan tài chính quan trọng trong thành phố. Ông ta không muốn có một anh chàng Israel đeo súng ngáng chân mình, khi ông ấy đang gần đến đích”.
“Tôi không bao giờ định làm là hy sinh để bảo vệ cho uy tín và sự rút lui an toàn của Graham Seymour”.
“Nhưng cuối cùng cậu vẫn sẽ không được làm khác để gây bối rối cho ông ta. Chúng ta cần dựng nên một ít thay đổi ý nhị cho sự thật để bảo vệ cho uy tín của cậu lẫn của ông ấy”. Shamron mỉm cười; bóp méo sự thật là một trong những thú vui ông thích nhất.
“Ông Graham Seymour đang nóng ruột. Và điều đó hữu dụng cho ta. Cậu sẽ cần ông ấy và bạn bè ông ấy trong cuộc đời tiếp theo của cậu”.
“Cuộc đời gì vậy?”.
Shamron nhìn Gabriel qua làn khói thuốc. “Cố tình không hiểu cũng chẳng ích gì đâu, Gabriel. Cậu biết rất rõ những gì chúng tôi dành cho cậu. Đã đến lúc cậu phải lãnh đạo. Chìa khoá để bước vào phòng chỉ huy đang nằm trong tầm tay của cậu”.
“Có thể, Ari, nhưng còn một vấn đề. Tôi không muốn thế. Tôi còn nhiều việc khác phải làm trong thời gian còn lại của cuộc đời”.
“Tôi e là đã đến lúc cậu phải bỏ đi những thứ vớ vẩn”.
“Ý ông muốn nói tới công việc phục chế tranh?”
“Phải”.
“Nhưng ông đã không xem đó là công việc vớ vẩn khi sử dụng nó là vỏ bọc cho một tên ám sat”.
“Công việc phục chế phục vụ cả hai yêu cầu của chúng ta trong thời gian dài”, Shamron nói. “Nhưng thời đó đã qua rồi”.
Họ đi ngang qua đóng cháy đen của một xe bọc thép chở lính, một tàn tích của cuộc chiến đấu dữ dội diễn ra ở khu Bab al Wad trong thời chiến tranh giành độc lập của Israel.
Gabriel nói. “Tôi đã ở phòng Nội các trong thời điểm khủng hoảng. Tôi đã nhìn thấy các nhà lãnh đạo cấu xé nhau ra từng mảnh. Đó không phải là điều tôi muốn phải trải qua trong vòng 10 năm tới. Ngoài ra, khi tất cả những tướng lĩnh trước đây chỉ xem tôi là cậu bé biết cầm súng”.
“Cậu đâu còn là cậu bé nữa. Cậu đang đến cái tuổi mà những người trong chính quyền đạt đến đỉnh cao sự nghiệp. Tuy nhiên, cậu sẽ đạt được đỉnh cao của mình sớm hơn đa số. Cậu lúc nào chả có chút khác người”.
Gabriel cầm tờ báo Haaretz lên hỏi. “Thế còn vụ này?”.
“Xì-căng-đan hả?”, Shamron nhún vai. “Một sự nghiệp không có xì-căng-đan thì không phải là sự nghiệp thành công đâu. Đối với đa số người, những vụ xì-căng-đan của cậuđã mang đến cho cậu nhiều đồng minh có giá trị ở Washington và Vatican”.
“Và cũng đem đến cả kẻ thù nữa”.
“Họ sẽ là kẻ thù cho dù hành động của cậu có đúng đắn đến thế nào đi nữa. Và họ sẽ là kẻ thù kể cả khi thân thể của cậu nằm cạnh Dani trên núi Ôliu sau một thời gian dài”, Shamron dụi điếu thuốc. “Đừng lo Gabriel. Đây không phải là chuyện xảy ra trong một đêm. Cái chết của Amos sẽ đến chậm và chỉ vài người biết rằng người bệnh này đã tới số”.
“Còn bao lâu?”.
“Một năm”, Shamron nói. “Có lẽ nhiều nhất là 18 tháng. Còn nhiều thời gian cho cậu sửa vài bức tranh nữa cho bạn mình ở Rome”.
“Không có cách nào cho ông giữ bí mật đó trong vòng một năm nữa, Ari. Ông luôn nói rằng chỗ tệ nhất để cố giữ bí mật là cơ qua tình báo”.
“Hiện có ba người còn giữ bí mật được chuyện đó – cậu, tôi và Thủ tướng”.
“Và Uzi chứ”
“Tôi cần phải đưa Uzi vào chuyện này”, Shamron nói. “Uzi sẽ làm tai mắt cho tôi trong Văn phòng”.
“Có lẽ đó là lí do ông cần tôi ở đó”.
Shamron mỉm cười. “không phải đâu Gabriel, tôi cần cậu ở đó để tôi có thể nghỉ ngơi”.
“Ông không nghĩ đến chuyện chết chứ Ari?”.
“Tôi chỉ muốn nghỉ ngơi một chút thôi”.
Gabriel xoay người nhìn ra cửa sau xe Limousine. Chiếc xe chạy theo đang ở sát phía sau họ. Anh nhìn Shamron hỏi có tin tức gì từ Luân Đôn về Elizabeth Halton không.
“Vẫn không có tin gì từ nững kẻ bắt cóc”, Shamron nói. “Và cũng không có thông tin gì từ phía người Anh, ít nhất là không có gì họ muốn nói cho công chúng biết. Nhưng có thể chúng ta đang sắp vào một mặt trận tình báo có lợi nào đó”.
“Từ đâu?”.
“Ai Cập”, Shamron nói. “Nguồn tin quan trọng nhất của chúng ta ở SSI (Tổng cục điều tra An ninh Quốc gia, một cách gọi lịch sự dành cho cảnh sát mật vụ Ai Cập) sáng nay đã gửi một tín hiệu cho biết anh ta có thông tin dành cho chúng ta”.
“Anh ta là ai?”, Gabriel hỏi.
“Wazir Al Zayyat, Trưởng phòng đấu tranh hoạt động Tôn giáo. Wazir giữ môt trong những vị trí khó khăn nhất ở Trung Đông. Bảo đảm những phần tử Hồi giáo quá khích trong nội địa Ai Cập không lật đổ chính quyền. Ai Cập là quê hương tinh thần của trào lưu Hồi giáo chính thống, và tất nhiên những người Hồi giáo Ai Cập là nòng cốt của ai-Qeada. Wazir biết nhiều về tình hình phong trào thánh chiến trên toàn cầu rõ hơn bất kỳ ai trên thế giới. Anh ấy đã báo cho ta về sự ổn định của chính quyền Mubarak và gửi bất kỳ thông tin tình báo nào cho thấy bọn khủng bố Ai Cập đang nhắm vào chúng ta”.
“Thế anh ta có thông tin gì cho chúng ta nào?”.
“Ta không biết được cho đến khi ngồi nói chuyện với anh ta”, Shamron nói. “Chúng ta sẽ gặp anh ta ở nước ngoài”.
“Ở đâu?”.
“Síp”
“Ai là sếp của nhân viên liên lạc với anh ta?”.
“Shimon Pazner”.
Pazner là Trưởng chi nhánh ở Rome, vừa làm Tổng hành dinh phụ trách hoạt động chiến dịch khắp Địa Trung Hải.
“Khi nào Pazner đi Síp?”.
“Anh ấy đi sáng mai”.
“Bảo anh ấy cứ ở lại Rome?”
“Sao thế?”
“Vì tôi sẽ đi Síp gặp nguồn tin Ai Cập”.
Shamron đáp lại đề xuất của Gabriel bằng vẻ im lặng khó chịu. “Sự dính líu của anh trong vụ này chính thức xong rồi”, cuối cùng ông nói. “Đây là chuyện của người Mỹ và Anh. Chúng ta có đủ chuyện phải lo rồi”.
Gabriel đáp lại. “Tôi đã có mặt ở đó khi chuyện xảy ra, Ari. Tôi muốn chúng ta làm gì đó có thể được để tìm ra cô ấy”.
“Chúng ta sẽ làm. Shimon Pazner đã phụ trách Wazir đã ba năm nay. Anh ấy còn có nhiều khả năng hơn là đi Síp để thẩm vấn vụ này”.
“Tôi chắc là anh ấy đủ khả năng nhưng tôi sẽ đi Síp thay cho anh ta”.
Chiếc bật lửa bằng thép không ghỉ đã củ của Shamron loé lên trong bóng tối. “Cậu chưa phải là Memuneh, con trai ạ. Còn nữa, cậu đã quên rằng hình ảnh của mình đang nằm đầy trên các báo sao?”.
“Tôi sẽ không đi sau bức màn sắt đâu, Ari”.
Shamron châm thuốc rồi dập tắt nó bằng cách lắc cổ tay thật mạnh. “Cậu dùng lời của tôi để chống lại tôi rồi”, ông nói. “Cứ tiến hành đi Gabriel, Hãy đến Síp ngày mai. Phải bảo đảm để phòng Nhận diện giúp cậu không bị người ta nhận ra. Cậu đã tự kiếm thêm những kẻ thù khác bằng những hành động trong công viên Hyde Park”.
“Graham Seymour cũng nói y hệt như vậy”.
“Thế à”, Shamron nói lại. “Ít ra trong chuyện này ông ấy cũng đúng”.
20 phút sau khi Gabriel bước vào căn hộ anh thấy đèn đang sáng dịu dàng trong phòng khách và mùi hương vani phảng phất trong không khí. Anh quăng túi xách lên chiếc ghế sôpha mới rồi đi vào phòng ngủ. Chiara đang nằm ở phía trong giường, đang nhìn chăm chú ngón chân mình. Cơ thể của nàng quấn trong khăn tấm và làn da thì nâu bóng do tắm nắng. Nàng nhìn lên Gabriel mỉm cười. Dường như họ mới gặp nhau cách đó vài phút chứ không phải vài tuần.
“Anh về rồi à?”, nàng nói với vẻ ngạc nhiên pha chút chế giễu.
“Shamron không nói là sẽ anh sẽ ở nhà tối nay sao?”
“Có thể lắm chứ”.
Gabriel bước qua lột chiếc khăn tắm ra khỏi tóc nàng. Chiếc khăn nặng và ướt tuột lên đôi vai nâu mịn màng của nàng. Nàng ngước lên để được hôn rồi tháo khăn quấn quanh mình. Có lẽ Shamron nói đúng, Gabriel nghĩ khi nàng kéo anh lên giường. Có lẽ rốt cuộc anh nên ở nhà với Chiara để Pazner đi Síp gặp nguồn tin Ai Cập.
Cả hai đều đói sau khi làm tình. Gabriel ngồi ở chiếc bàn nhỏ trong nhà bếp, xem tin tức trên tivi còn Chiara làm món fettucine cùng với nấm. Nàng đang mặc chiếc áo sơ mi của Gabriel, không gài nút cho tới bụng và không mặc gì phía dưới.
“Sao em biết anh bị bắt?”.
“Em đọc trên báo như mọi người thôi”, nàng rót cho anh một ly rượu vang đỏ. “Anh chính là người gây ra cơn thịnh nộ ở Buenos Aires”.
“Em làm việc gì ở đó?”
“Anh biết em không nói được mà”.
“Anh biết em đang theo dõi những thành viên của một tổ chức Hezbollah. Anh chỉ muốn biết em có tham gia trong đội theo dõi thực sự hay chỉ là sĩ quan hộ tống?”.
“Em là thành viên trong đội”, cô nói. “Em đâu còn làm công việc hộ tống nữa”.
“Sao họ lại rút em ra?”.
“Do quá gần các mục tiêu”. Khuôn mặt của Elizabeth Halton thình lình xuất hiện trên màn ảnh truyền hình. “Cô gái ấy xinh thê”, Chiara nói. “Sao chúng lại bắt cô ta?”.
“Ngày mai anh có thể tìm ra”. Anh kể cho cô nghe về chuyến đi Síp.
“Thế còn bữa ăn tối với ngài Thủ tường?”.
Gabriel nhìn lên tivi. “Sao em biết?”.
“Shamron kể em nghe”.
“Ông ấy đã tiết lộ quá nhiều đối với tính chất an toàn của một chiến dịch”, anh nói. “Thế chính xác thì ông ấy nói gì với em?”.
Cô cho fecttucine vào trong nước để đun sôi rồi ngồi xuống cạnh anh. “Ông ấy nói anh đã đồng ý tiếp quản nhiệm vụ Giám đốc của Amos”.
“Anh đâu có đồng ý như vậy”.
“Không phải lời Shamron nói đâu”.
“Shamron từ lâu đã nghe được chính xác những gì ông ấy muốn nghe. Thế ông ấy còn nói gì?”.
“Ông ấy muốn chúng ta sắp xếp cuộc sống riêng tư càng sớm càng tốt. Ông ấy nghĩ thật không phù hợp cho một Giám đốc khi sống với một người phụ nữ mà không có hôn nhân, đặc biệt người đó lại là nhân viên của Văn phòng. Ông ấy nghĩ chúng ta nên xúc tiến kế hoạch làm đám cưới”. Cô đặt ngón tay dưới cằm anh rồi quay mặt anh về phía cô. “Anh đồng ý mà, có phải không?”.
“Được, tất nhiên rồi”, Gabriel nói vội vàng. Anh thừa biết bất kỳ sự do dự nào khi bàn về chuyện kế hoạch cưới xin đều được Chiara cho là sự lần lữa. “Chúng ta sẽ cưới càng sớm càng tốt”.
“Khi nào?”.
“Ý em là sao?”
“Đó là câu hỏi đơn giản mà, Gabriel. Anh có nghĩ là chúng ta nên kết hôn không?”.
“Cuối mùa xuân đi”, anh nói. “Trước khi trời quá nóng”.
“Tháng Năm phải không?”.
“Tháng Năm sẽ tuyệt vời”.
Chiara bỏ ngón tay ra khỏi cằm Gabriel rồi cắn móng tay vẻ lo lắng. “Làm sao em lên kế hoạch đám cưới trong sáu tháng đây?”.
“Cứ thuê một chuyên gia lên kế hoạch giúp em là được”.
“Đám cưới chứ có phải chiến dịch đâu, Gabriel. Phải được gia đình sắp xếp chứ đâu cần chuyên gia”.
“Thế còn Gilah Shamron? Bà ấy là người thân nhất và như là mẹ của em mà”.
“Gilah hiện đang bận bịu chăm lo cho chồng rồi”.
“Nhờ bà ấy giúp chuẩn bị đám cưới cũng đúng thôi. Tin anh đí, bà ấy sẽ rất vui đấy”.
“Thực ra đó cũng là ý hay. Thảo nào Shamron muốn anh làm sếp. Điều đầu tiên chúng ta phải làm là thống nhất danh sách khách mời”.
“Cũng dễ thôi”, Gabriel nói. “Cứ mời tất cả mọi người trong Văn phòng, Shabak, Aman, đa số thành viên Nội các và một nửa người của Knesset. À mà đừng quên mời Thủ tướng đấy nhé”.
“Em không chắc là cần mời Thủ tướng tham dự đám cưới của mình”.
“Em sợ mình bị lu mờ bởi một ông già tám mươi tuổi mập ú à?”.
“Vâng”.
“Thủ tướng có ba người con gái. Ông ấy chắc chắn sẽ không làm ngôi sao trong ngày trọng đại của em đâu”.
“Ngày trọng đại của chúng ta chứ, Gabriel”. Nước bắt đầu sôi. Nàng đứng dậy bước đến bếp lò. “Anh có chắc ngày mai sẽ đi Ai Cập không?”.
“Anh muốn tận tai nghe nguồn tin Ai Cập nói gì trước mặt mình”.
“Nhưng anh vừa mới về nhà thôi mà”.
“Chỉ mất một hay hai ngày thôi. Sao em không đi cùng với anh? Có thể chuyến đi này sẽ giúp cho làn da em thêm rám nắng”.
“Thời điểm này ở Síp rất lạnh”.
“Vậy em muốn anh đi một mình à?”
“Em sẽ đi”, nàng nói. “Anh không nhận xét gì về cách trang trí căn hộ của em. Anh thích không?”.
“Ồ thích chứ”, anh nói vội. “Đẹp đấy”.
“Em thấy có vòng tròn của đáy ly trên bàn cà phê. Thế anh đã để ly nóng lên mà không dùng lót ly à?”.
“Chính Uzi làm đó”, Gabriel nói.
Chiara đổ fettucine vào chảo rồi cau mày. “Anh chàng đó cẩu thả thế”, nàng nói. “Không hiểu sao Bella có thể sống với anh ấy”.