Giấc mơ bị đánh cắp - Chương 15
Giấc mơ bị đánh cắp
Chương 15
Ngày đăng 01-11-2017
Tổng cộng 16 hồi
Đánh giá 9.1/10 với 14538 lượt xem
Ngồi yên, Sezar! - Larsev nghe thấy phía sau cửa một giọng hách dịch. Nghe thấy tiếng bước chân, cửa mở ra. Chính người đàn bà ấy đứng ở cửa.
— Chào chị, chị nhận ra tôi không? Chúng ta vẫn gặp nhau ở các buổi họp phụ huynh của trường số 64. Chị nhớ chứ? Tôi là bố của Nadia.
Người đàn bà kêu ôi lên và tựa vào cửa.
— Anh muốn nói là bố dượng? - bà ta hỏi cho rõ hơn.
— Ồ không, đúng là bố. Mà tại sao lại phải là bố dượng chứ?
— Nhưng sao lại thế được... - bà ta máy mắt bối rối. - Tôi nghĩ, bố của Nadia...
— Chị nghĩ gì? - Larsev hỏi gắt khi đi vào phòng và đóng cửa lại.
Người đàn bà bật khóc.
— Xin lỗi, vì Chúa, tha lỗi cho tôi, tôi đã biết rằng điều này sẽ kết thúc chẳng tốt đẹp gì, tôi đã cảm thấy... những số tiền như thế... tôi đã cảm thấy.
Sự lắp bắp của bà ta luôn luôn bị cắt ngang bởi những tiếng sụt sịt, sau đó bà ta lục tìm thuốc valocordin, run rẩy uống nước, nhưng cuối cùng Larsev cũng sắp xếp lại từ những lời tản mạn được gần như một câu chuyện.
Năm ngoái có một người nhờ bà ta đi họp phu huynh ở trường 64, trong lớp có Nadia học. Ông ta là bố của Nadia, nhưng đã chia tay với vợ do một vụ tai tiếng nặng nề, cô vợ không muốn nghe gì về ông ấy và không muốn cho ông ấy đến gần con gái. Mà ông ấy lại rất muốn được biết dù chỉ là gì đó về cô bé, về việc học của nó, nó xử sự thế nào ở trường, nó có những vấn đề gì, có ốm hay không. Ông ấy có vẻ là một ông bố chân thật, đau khổ và yêu con đến mức không thể từ chối nổi ông ấy. Hơn nữa, ông ấy còn đưa ra số tiền thưởng khá lớn vì sự giúp đỡ không vất vả là bao.
— Ông ta là ai? - Larsev hỏi.
— Tôi không biết, - Dakhno lại khóc.
— Ông ta tìm chị bằng cách nào?
— Chúng tôi cùng xếp hàng trong cửa hàng. Hàng dài, chúng tôi đã nói chuyện, ông ấy than vãn về vấn đề gia đình... Chỉ có thế. Và tôi không gặp lại ông ta thêm nữa. Ông ta tự gọi điện thoại cho tôi.
— Thế chị nhận tiền của ông ta bằng cách nào?
— Ông ấy bỏ chúng trong phong bì và cho vào thùng thư của tôi, sau mỗi buổi họp, ngày hôm sau. Buổi tối sau cuộc họp ông ấy gọi cho tôi, tôi kể hết với ông ấy, còn ngày hôm sau - phong bì trong thùng thư. Anh nên hiểu cho tôi, - Dakhno sụt sịt, - tôi là thợ săn, mà điều đó đòi hỏi một số tiền khổng lồ. Cần xe để chở trang bị, cần vũ khí, đạn, giấy phép... Còn tôi không thể không đi săn, tôi sẽ chết nếu thiếu nó. Tôi sinh ra ở Xibir, ở khu bảo tồn, bố tôi là thợ săn chuyên nghiệp, đã dạy tôi quen với nghề săn từ bé. Tước nó đi, tôi sẽ chết khô trong thành phố.
Dakhno biện bạch, thỉnh thoảng tay ôm lấy ngực, uống thuốc trợ tim, sụt sùi và hỉ mũi. Họ ngồi trong căn phòng rộng nhưng không ấm cúng, với đồ gỗ nhiều kích cỡ khác nhau, rõ ràng được mua tình cờ vào những thời gian khác nhau, thiếu phong cách và ý nghĩa thống nhất. Tất cả các bức tường căn hộ ba phòng rộng được treo những chiến tích thợ săn và vũ khí. Con chó doberman tuyền chủng to lớn có tên Sezar nằm trịnh trọng trên ngưỡng cửa dẫn ra phòng ngoài.
— Gắng bình tĩnh lại, chị Dakhno, - Larsev nói nhẹ nhàng. - Chúng ta thử phục hồi lại tất cả ngay từ đầu những gì chị nhớ về người này. Đừng vội, hãy suy nghĩ.
— Anh cần gì người ấy? - Dakhno bỗng hỏi với vẻ ngờ vực.
— Chị thấy đấy, con gái tôi bị bắt cóc, và chính hắn đã tổ chức vụ bắt cóc này.
— Sao?! - Dakhno lại ôm lấy tim. - Trời ơi, khủng khiếp làm sao, khủng khiếp làm sao! - Bà ta rên rẩm, ôm lấy đầu và lắc lư trên ghế. - Lỗi tại tôi, con đần cả tin, đã chạy theo tiền, đã tin đồ đểu giả...
Và tất cả lại bắt đầu: nức nở, thuốc trợ tim, nước, những lời ăn năn, đấm ngực. Larsev trở nên thương cảm tuyệt vọng người đàn bà không còn trẻ này, người đầu tiên, như con thiêu thân, bị cuốn hút bởi ánh sáng thành phố, sau đó đã bị bỏng. Cô bé từ khu bảo tồn vùng Xibia bắt đầu nghẹt thở trong thành phố lớn bằng đá đầy bụi bặm, đặc khói và sự xả hơi duy nhất của cô ta trong tất cả những năm ấy là đi săn, như ngụm khí lành và sự trong sạch của tự nhiên.
***
Từ bến “University” Larsev đến nhà Dakhno bằng metro, nhưng khi chuyển sang tuyến vòng tròn thì những người theo dõi đã để sổng mất anh. Giờ cao điểm, mọi người kẹt vào nhau, thúc đẩy, cản đường, quành qua vô số quầy và sạp sách báo xuất hiện khắp các đường ngầm và lối qua lại.
— Ta quay lại ngay Hội thợ săn và câu cá Moskva, - người thấp và lớn tuổi hơn ra lệnh. Cặp đôi với ông ta là một chàng trai trẻ tóc sẫm dễ mến, khéo léo ngoằn ngoèo thoát ra khỏi đám đông và hoà vào dòng người ngược chiều, lấy mình tạo đường cho người lớn tuổi hơn.
Ngày làm việc đã hết và cô nhân viên của Hội thợ săn và câu cá Moskva từng nói chuyện với Larsev, đã đi khỏi đấy. Lấy địa chỉ của cô chỗ người trực, những người theo dõi báo cáo về Petrovca cho Jerekhov, và phóng đi Kungevo. Khó lắm mới thuyết phục được người phụ nữ lên xe và quay lại chỗ làm việc. Không giấu vẻ bực tức, cô mở két và vứt ra bàn các sổ thống kê.
Cô có những kế hoạch khá xác định cho tối ấy, và những người công an kì quặc chạy theo nhau chẳng gây cho cô gì hơn ngoài sự bực tức.
— Anh ta quan tâm đến ai đó phải không? - Chàng trai cao hỏi nhã nhặn khi lật các phiếu với ảnh các nữ thợ săn.
— Không biết. Anh ta không ghi chép gì cả. Chỉ nhìn qua thôi.
— Xin chị nhớ lại cho, có thể anh ta ngó sổ nào đó lâu hơn, hỏi chị gì đó? Chúng tôi cần bất cứ chi tiết nào.
— Chẳng có gì như thế cả. Đơn thuần nhìn qua một cách chăm chú tất cả các sổ, cảm ơn và đi khỏi.
— Vậy có thể là anh ta không tìm được điều cần tìm? Chỉ cảm thấy thế nào?
— Tôi hỏi anh ta, anh ta đáp là đã tìm được. Các anh còn giữ tôi lâu không đây?
— Bây giờ chúng tôi sẽ đi, chỉ viết lại các địa chỉ nữa thôi. Này, - người trẻ chợt nói với người già hơn, - phần lớn những người phụ nữ này làm việc ngay tại đây, ở Hội. Nếu Larsev không ở lại đây và không làm rõ điều gì, nghĩa là anh ta quan tâm đến một người không phải trong số họ. Những phụ nữ làm việc ở nơi khác không nhiều.
— Đã nhẹ hơn - người lớn tuổi mừng rỡ. - Cậu khá lắm. Chúng ta ghi nhanh các địa chỉ, vạch kế hoạch đi một vòng và xin Jerekhov cho thêm người giúp.
Địa chỉ đầu tiên trong kế hoạch là ở phố Domodedovo, thứ hai là nhà trên phố Liublin để làm xong phần phía Nam Moskva và đi tiếp qua trung tâm, đầu tiên về phía đồng, sau đó về phía bắc. Địa chỉ Dakhno ở đầu đại lộ Lenin là thứ ba trong kế hoạch. Đã tám giờ kém hai mươi tối.
***
Đến bảy giờ tối Gradov cuối cùng đã hiểu rằng sự việc của y là hoàn toàn tồi tệ. Vào khoảng hai giờ rưỡi khi y chia tay với Arxen và khi ngồi trong quán bar, cố lập lại trật tự tương đối của các ý nghĩ, y bỗng chợt loé hiểu ra. Đã xảy ra sự hiểu nhầm nào đó! Arxen nhắc đến Nikiforov, và Gradov đã sợ đến nỗi hoàn toàn mất khả năng suy nghĩ chứ chưa nói gì đến chống lại sự tấn công của Arxen. Giờ đây, khi nhớ lại các chi tiết cuộc nói chuyện, y nhớ lại rằng Arxen trách y tự ý hành động. Lão có ý gì? Y, Gradov, không hề cho phép bản thân tự ý làm gì cả. Đó là sai lầm, sai lầm đáng bực cần làm rõ, và Arxen sẽ quay lại với giao kèo và tiến hành công việc đến cùng. Cần phải gấp rút liên lạc với lão.
Gradov vội vã ra khỏi bar, ngồi lên xe và đi về nhà. Y gọi mấy lần từ điện thoại gia đình theo số quy ước và bắt đầu chờ tín hiệu trả lời để thoả thuận về địa điểm và thời gian gặp gỡ. Nhưng không có chuông đáp trả. Y lặp lại, nhưng vẫn không kết quả. Gradov bắt đầu bị kích động và liên lạc với người quen của mình ở Bộ Nội vụ với đề nghị kiểm tra xem số điện thoại mà y quan tâm được mắc ở đâu và cho ai. Lời đáp đến nhanh và y thất vọng: cái điện thoại như thế không đăng kí tên ai và trong suốt 1 năm trước đây vẫn tự do.
Vẫn còn một cách, mà nhờ nó lần đầu tiên y đến gặp Arxen.
Gradov gọi điện thoại cho người đã cho y cách tiếp cận lần đầu với văn phòng.
— Chào anh Piotr, tôi là Gradov đây, - y nói hấp tấp. - Xin mách giùm, làm sao để tôi liên hệ gấp được với người quen của anh?
— Gradov ư? - một giọng trầm kêu to vẻ ngạc nhiên. - Tôi không nhớ. Ai giới thiệu ông?
— Sao lại thế được, anh Piotr, hai tháng trước tôi đã gọi cho anh và anh từng cho tôi số điện thoại để liên hệ với người có thể giúp trong một chuyện tế nhị. Tôi cần gấp người này.
— Tôi không hiểu ông nói cái gì. Có thể ông lẫn số điện thoại chăng?
Gradov cũng hoàn toàn không nghi ngờ rằng Arxen thận trọng và nhìn xa, ngay sau cuộc nói chuyện với y đã gọi cho Piotr và nói:
— Nếu anh bạn cậu dám đi tìm kiếm tôi, hãy giải thích với hắn là hắn không đúng.
Gradov hoảng sợ nghĩ rằng mọi sự đã hỏng. Y không tìm nổi Arxen. Không bao giờ. Chỉ còn lại một hi vọng cuối cùng. Hi vọng cuối cùng đó là Fictin.
Gradov lớn lên là một đứa trẻ được âu yếm nuông chiều. Hắn thật tình đau khổ vì tất cả bạn bè của hắn đều có người bố bên cạnh, còn bố hắn chỉ thỉnh thoảng mới qua lại, cũng không ít khi ông bố tới thì mẹ đã đuổi hắn ra sân chơi. Bố luôn luôn đến với quà tặng, đồ chơi, mẹ yêu ông ta điên cuồng và luôn mồm nói: Bố của chúng ta là tốt nhất, đơn giản bố có vợ khác với hai đứa con mà ông là người trung thực nên không thể bỏ họ. Về phần bố thì ông đoan chắc với hắn: con trai ạ, nếu có chuyện gì - bao giờ bố cũng sẽ giúp, bố không bỏ con trong hoạn nạn, con có thể dựa vào bố, con và mẹ là những người yêu thương nhất của bố. Nhiều lần Gradov gây ra những trò ngu ngốc kiểu trẻ con thông thường, nhưng chưa bao giờ bị trừng phạt vì chúng, ngược lại, bố và mẹ, cảm thấy có lỗi trước đứa trẻ vì thiếu đi một gia đình toàn vẹn, đã tự dàn xếp tình hình và không mắng con, thậm chí còn có vẻ như thương xót.
Cùng với năm tháng, ở Gradov đã phát triển sự thiếu kĩ năng và không mong muốn tuyệt đối nghĩ về các hậu quả của những hành động của bản thân, dù là nhìn xa trước chỉ một bước. Hắn làm tất cả những gì hắn cho là cần, dành cho bố mẹ cái vinh dự sửa chữa những bước thiếu suy nghĩ và đôi khi nguy hại của hắn. Kết quả chính là điều mà các nhà tâm lí học gọi là sự rối loạn kích động của tư duy. Trong tình huống stress, đầu óc Gradov mụ mị, hắn lĩnh hội tồi, bắt đầu nói và làm những điều phi lí. Mà bất cứ sự thay đổi hoàn cảnh nào đòi hỏi sự chú ý, suy ngẫm, phản ứng, tiếp nhận quyết định cũng trở thành stress đối với hắn. Một sự căng thẳng tâm lí nhỏ nhất y cung không thể chịu đựng nổi.
Sau quân ngũ, ông bố đã sắp xếp cho Gradov vào trường Đại học Quan hệ quốc tế. Học ở MGIMO nơi đa số là con cái của những phụ huynh quyền cao chức trọng mà nhiều người đủ các mối quan hệ để “dự thi” cho quý tử của mình ngay sau tốt nghiệp phổ thông, vì thế có không nhiều sinh viên đã qua quân đội. Họ thu hút bởi sự trưởng thành, tri thức, lối sinh hoạt quân đội, những chuyện tiếu lâm thô tục, những câu chuyện về đàn bà và gái say rượu, những người bẩn thỉu rất giống lũ trẻ mồ côi. Người ta tìm kiếm sự chú ý của họ, kính trọng họ, nghe theo lời họ.
Từ nhóm của mình, Gradov đặc biệt tách riêng Nikiforov, kẻ hoàn toàn khác bản thân hắn. Nikiforov lớn lên ở nước ngoài trong gia đình một nhà ngoại giao, thời trẻ sống với sách vở, piano và học ngoại ngữ, tiếp xúc chủ yếu với mẹ, được nuôi dưỡng giữa một nhóm người Xô viết ít ỏi. Học xong lớp mười ở Moskva và lập tức thi vào đại học. Thoát khỏi gia đình, Nikiforov rơi trọn vẹn vào ảnh hưởng của Gradov, dường như dứt ra khỏi xiềng xích. Cha mẹ cậu ta lại đi công tác dài hạn ở nước ngoài, để lại cho con trai căn hộ, cấp tiền và quần áo mốt một cách đều đặn.
Sau chuyện xảy ra trong rừng, Gradov và Nikiforov dễ dàng giải quyết vấn đề trả tiền cho chồng của nạn nhân, lần lượt bán cái này cái nọ từ những thứ đồ bố mẹ của Nikiforov gửi về. Nhưng Gradov, không có khả năng lấy tiền của mẹ, không muốn vĩnh viễn mắc nợ gã công tử no đủ.
Ý đồ thoát khỏi kẻ tống tiền dai dẳng là của hắn. Eremina là người quen của hắn, và hắn không khó gì thuyết phục Lusnicov sau lần chuyển tiền thường lệ, cả ba cùng đi uống, ngồi một lát ở chỗ “một cô ả ngọt ngào”. Eremina bị chuốc say nhanh đến trạng thái không chịu trách nhiệm một cách trọn vẹn về hành động và được đặt nằm ngủ; với Lusnicov phải vất vả hơn nhưng cuối cùng cả anh ta cũng được đưa đến giường của Eremina. Chúng chém bằng dao làm bếp theo thứ tự. Sau đó ngồi ngoài bếp và chờ khi Eremina tỉnh lại. Nikiforov nhấp nhổm như ngồi trên đống lửa và muốn bỏ đi sao cho nhanh hơn, nhưng Gradov giải thích một cách đầy uy tín rằng nhất thiết phải đợi cho tới khi Eremina phát hiện ra tử thi, và đóng một màn kịch trước cô ta nhằm thuyết phục cô ta rằng, chính Eremina, uống say đến mất trí, đã giết chết chàng trai. Nếu khác, thì chưa rõ sự thể sẽ quay trở thế nào.
— Không được bỏ tình huống ngoài tầm kiểm soát, - Gradov tuyên bố với vẻ quan trọng khi lấy thêm khoai tây và bánh mì. Vụ giết người vừa gây ra không đánh mất sự ngon miệng của hắn. Hắn thậm chí không để ý đến đứa con gái Victoria ba tuổi của Eremina đang lặng lẽ loay hoay dưới gầm bàn và thở phì phò với những vấn đề trẻ em của mình.
Chúng chờ lâu. Cuối cùng từ phòng vọng đến những tiếng động, thoạt đầu khó hiểu, nhưng rất chóng chuyển thành tiếng hét man dại. Trên ngưỡng cửa xuất hiện Eremina xanh xám vì kinh hãi với hai tay đầy máu. Máu nhỏ giọt từ các ngón tay, và cô ta nhìn tay mình vẻ ngơ ngác, như người bị mất trí, chùi tay lên bức tường quét vôi. Cảnh tượng khủng khiếp đến nỗi Nikiforov khó lắm mới kìm được nôn mửa. Hắn rất không muốn mất mặt trước người bạn tốt nhất, và để phô trương sựtự chủ, hắn vớ lấy cục phấn thợ may màu xanh lơ từ cái hộp và vẽ cái cần đàn violon ngang qua các vạch máu để lại trên tường. Vào thời điểm ấy hắn cho hành động của mình là độc đáo và bất tuân nguyên tắc và đã cười to vẻ thoả mãn. Hắn có thể tự hào về bản thân. Tiếp theo mọi sự diễn ra như Gradov đã nghĩ. Với tiếng la: “Đ. mẹ, cô đã làm gì cơ chứ, cô đã chém anh ta! - chúng lao ra cầu thang, kéo sự chú ý của các hàng xóm và tạo nên, như Gradov diễn đạt, dư luận quần chúng. Công an đến, những gã trai trẻ cho lời khai, và ngay đó Nikiforov chợt tỉnh ngộ:
— Họ ghi địa chỉ và nơi học của chúng ta. Thế nhỡ ra họ gửi điện báo về trường, rằng chúng ta chơi cùng con say giết người? Chỉ sau ba giây người ta sẽ tống cổ chúng ta ra khỏi trường.
Gradov không lường trước chuyện đó. Nhưng vẫn không sợ hãi lắm. Có bố, rốt cuộc thì bao giờ ông cũng giúp.
Gradov bèn trình bày với bố cái giả thuyết mà hắn đã nói với các nhân viên công an. Nhưng Popov quá biết rõ con trai nên đâu nuốt nổi sự lừa dối như thế.
— Đó là chúng mày làm hả? - ông hỏi không úp mở.
— Vâng ạ, nhưng sao bố đoán được? - Gradov nhìn thẳng vào mắt bố với vẻ thách thức. Hắn đã trở nên vô lương tâm tuyệt đối, và sự thiếu trừng phạt thường xuyên đã làm mất đi những dấu vết cuối cùng của nỗi sợ trước cơn thịnh nộ của cha mẹ.
Ông bố giảng giải cho con trai trong những diễn đạt cô đọng, ngắn gọn, hình tượng nhưng khá cụ thể, rằng hắn đã gây ra một hành động khá xấu xa. Nhưng dẫu sao vẫn hứa giúp. Và đã giúp.
Sau khi tốt nghiệp đại học, đường đi của Gradov và Nikiforov đã tách ra. Popov tiến nhanh trên bậc thang Đảng, đã sắp xếp cho con trai vào thành uỷ Moskva. Với những chuyến xuất ngoại thì không xong vì Gradov lười học ngoại ngữ, học các thứ tiếng chẳng đâu vào đâu nên khó hi vọng. Gradov tự thoả mãn với sự phân công, không vội vàng xây dựng con đường công danh. Đến khởi đầu của cải tổ, hắn đã mở rộng vô số mối quan hệ và nghĩ một phương cách kiếm ngoại tệ dễ đàng, khi đã tổ chức tại Paris một đống văn sĩ và dịch giả trẻ đói nghèo trong giới di tản và cấp cho họ vật liệu để nhào nặn văn chương và viết những truyện trinh thám buốt xé lòng người.
Sau vụ bạo động năm 1991, khi một đảng đã chết trọn vẹn và thay vào chỗ của nó, như đám nấm, xuất hiện vô số các đảng và phái mới, Gradov với sự phấn khích được củng cố bởi nền tảng vật chất ngoại tệ, đã bắt đầu xây đắp một trang mới trong cuộc đời mình. Và ở đây, trên đường đi của hắn sau nhiều năm tách biệt bỗng lại xuất hiện Nikiforov...
Nikiforov đã sống hoàn toàn khác qua 18 năm sau sự phân công, ở năm cuối đại học gã cưới một nữ sinh cũng của trường này, một cô gái gầy, không cao với cặp vú nhỏ gợi cảm và những kì vọng lớn, từ một gia đình rất tốt và với một tính cách rất tồi. Sau câu chuyện xảy ra trong rừng, theo bản năng, gã tránh né những người đàn bà kiểu Nga điển hình, to con, tóc sáng, mắt xám và mặt tròn, đơn giản là gã không thể tưởng tượng nổi, làm cách nào đụng đến họ, chứ chưa nói chuyện ngủ cùng. Tự gã - thanh nhã, dáng cao, với khuôn mặt đẹp dịu dàng, cuốn hút các cô gái, nhưng trong tất cả các ứng cử viên gã đã lựa chọn Lena - người ít giống nhất với những mĩ nhân Nga. Nikiforov, từ nhỏ đã thuộc nhiều ngoại ngữ, với sự thích thú nghiên cứu tiếng Hà Lan trong trường đại học, điều đã giúp gã thông qua bạn gái Hà Lan nhận được đề cử sang Hà Lan với tư cách đại diện của một trong những Công ty Ngoại thương. Cô vợ hết sức hân hoan. Mọi thứ diễn ra như cô ta tưởng tượng khi lấy Nikiforov. Họ sinh được một bé gái.
Nhưng đường công danh vừa bắt đầu sáng chói bỗng mắc nghẽn. Nikiforov đều đặn uống rượu và rơi vào sầu não, nghe nhạc buồn và lí giải về ý nghĩa cuộc sống, tội lỗi và sự vớ vẩn khác. Cô vợ bắt đầu bị kích động, cô lấy chiếc cặp ngoại giao của gã và cho rằng gã phải làm việc, lấy lòng những người cần thiết, đi đến các cuộc tiếp kiến, nhưng thay vào đó gã cứ giả vờ như một thằng ngốc. Còn sau đó, tại một cuộc tiếp kiến vô cùng quan trọng, Nikiforov say mềm, mất mặt, nói những điều ngu xuẩn - tóm lại, đã xử sự không đúng. Đề tài chủ yếu của những phát biểu nảy lửa lúc say của gã là gã cần làm việc, ý rằng tất cả chúng ta ở đây là những kẻ no nê và thành đạt và chúng ta làm ra vẻ là mọi thứ đều ổn thoẳ, nhưng thực sự mỗi người chúng ta đi đến đây qua những xác chết và trên mỗi xác đó để lại tội lỗi. Trong vòng một ngày gã bị gọi về Moskva. Gã bị cấm xuất ngoại, không còn những chuyến đi nước ngoài, vì thế vợ gã, không nghĩ ngợi lâu, đã ôm con gái và những gì kiếm được qua thời chung sống và rời bỏ chiếc giường vợ chồng không một chút thương tiếc. Đó là năm 1977. Đến năm 1980 Nikiforov uống rượu đủ để bị đuổi khỏi ngành Ngoại thương và từ đấy sống trong nhà xuất bản “Tiến bộ” như một dịch giả. Năm 1981 khi bố mẹ từ nước ngoài đã về hẳn, cuộc sống của gã trở nên hoàn toàn không thể chịu đựng nổi. Gã không thể kiếm đủ tiền mua căn hộ riêng, vì thế hàng ngày phải nghe những lời rền rỉ và trách móc của bố mẹ. Gã chịu đựng hết mức có thể, sau đó cưới một cô hầu bàn và đến sống với cô ta. Suốt những năm ấy gã chỉ gặp anh bạn tâm tình Gradov có một lần, vào năm 1983, tại cuộc gặp gỡ sinh viên tốt nghiệp khoá 1973, nói qua một đôi lời, trao đổi số điện thoại, gã cảm thấy bấn loạn và rời ngay hội. Gã chẳng có gì để huênh hoang.
Những hoạt động liên doanh càng xuất hiện, công việc của Nikiforov càng tiến triển tốt hơn, gã được mời dịch trực tiếp tại những cuộc thương thuyết nghiêm túc và không nghiêm túc.
Năm 1991, gã được mời đi dịch tại các cuộc thương thuyết với một doanh nhân Hà Lan nào đó. Ông Hà Lan ngay lập tức đã để mắt tới cô thư kí Victoria xinh đẹp, người bê cà phê và đồ uống, và sau kết thúc phần trọng thể đã mời cô ta đi hiệu ăn. Nhân thể cũng gọi cả Nikiforov, bởi vì không thể trò chuyện với cô mà thiếu sự giúp đỡ của Nikiforov. Trong nhà hàng, mọi người uống đủ, và nhà doanh nghiệp chở họ về chỗ mình ở khách sạn, vào căn hộ sang trọng hai phòng. Trong khi ông ta giải trí với Victoria, Nikiforov kịp ngủ trên đivăng ở phòng bên. Ông Hà Lan ra khỏi phòng ngủ với nụ cười mệt mỏi và mời Nikiforov món ăn thừa từ bàn ăn lãnh chúa. Cô gái đẹp khác thường, và Nikforov nguyền rủa trong bụng vì sự yếu đuối và vượt qua sự tởm lợm của chính mình, đã tiếp nhận. Victoria gợi gã mơ hồ nhớ tới một ai đó, và gã hỏi họ tên cô, hi vọng đã gặp cô ở đâu đó. Nghe thấy cái tên Eremina, gã rùng mình và chết lặng, nhưng lập tức tự trấn an rằng cái họ này phổ biến và đây hẳn chỉ là một sự trùng lặp mà thôi.
Nhưng hoá ra không đơn giản thoát khỏi sự quan tâm bệnh hoạn tới Victoria, vì thế Nikiforov tự xin đưa cô từ khách sạn về nhà, ghé vào chỗ cô và ở lại đến sáng. Ngay giữa đêm cô tỉnh dậy với tiếng kêu thét, cả người đẫm mồ hôi nước mắt, nhổm lên khỏi giường, rót vodca ra cốc uống một hơi và kể với Nikiforov về giấc mơ vẫn luôn làm cô sợ. Sau đó cô nức nở, đấm ngực như bị thần kinh, cô nôn mửa, Nikiforov lau nước mắt cho cô và với nỗi kinh hoàng nghĩ rằng, chính là gã với Gradov có lỗi trong cuộc đời bị bật gốc và tâm lí bị bẻ gãy của cô gái. Gã thương Victoria đến đau đớn dày vò và cũng dằn vặt dày vò như thế. Sau hai chục năm, những ăn năn về điều đó đã là giọt cuối làm tràn miệng chén.
Đến sáng gã gọi cho Gradov và nói những lời quanh co, ý là chúng phải giúp Victoria, chúng có lỗi trong chuyên cuộc đời cô bị bẻ gảy, tội ác đè nặng lên chúng. Một thời gian sau đó Gradov đã trấn an được anh bạn cũ.
— Cậu bây giờ là một trợ thủ thế nào cơ chứ? - Gradov ngọt ngào thuyết phục, - ngay cậu không sống nổi một ngày thiếu rượu. Đầu tiên chúng ta giúp cậu ổn định đã, sau đó ta sẽ nghĩ cách giúp cô bé. Tớ sẽ đưa cậu đến chỗ bác sĩ của mình, ông ấy sẽ chạy chữa cho cậu, rồi khi đó chúng la sẽ quyết định.
Những lời khuyên nhủ làm gã yên tâm được một thời gian, nhưng sau đó Nikilorov càng gọi điện thoại thường xuyên hơn cho Gradov về đêm với những ý tưởng mê sảng như tự tử và để lại bức thư sám hối, hoặc đến gặp cha cố xưng tội, hoặc thú nhận tất cả với Victoria và xin cô tha thứ. Gradov hiểu rằng Nikiforov đã trở nên nguy hiểm. Và Gradov có quyết định, như thông thường, thô lỗ và triệt để.
***
— Con bé thế nào? - Arxen hỏi nhỏ, co rúm vì lạnh và thở hơi sưởi hai tay cóng lạnh.
Trong phòng mờ tối, máy điện tâm đồ kêu khẽ, máy tự động vạch những đường cong bí ẩn mà trong đó là lời đáp cho câu hỏi được đặt ra.
— Tạm thời chưa có gì, còn chịu được, - bác sĩ đáp, tách dây diện khỏi người cô bé và xếp dụng cụ vào chiếc vali nhỏ. - Nhịp tốt, mạch lạc.
— Nhưng không tiếp tục giữ lâu được như thế chứ? - Arxen hỏi cho rõ thêm.
— Biết nói sao với ông... - bác sĩ dài giọng không xác định. - Ông hãy nói với tôi ông cần gì, và lúc ấy tôi sẽ nói cần làm thế nào cho tốt hơn.
Ông ta ngần ngại nhìn vào mặt Arxen, để làm điều đó ông ta phải cúi thấp đầu, bởi vì lão già thấp hơn nhiều.
— Đừng có dựa vào tôi, - Arxen nói gay gắt. - Anh là bác sĩ, vậy thì hãy nói với tôi tuyệt đối chính xác, còn có thể giữ con bé bao lâu bằng thuốc mà không nguy hiểm đến sức khoẻ của nó. Anh hãy nêu thời hạn cuối, và lúc đó tôi sẽ có quyết định phù hợp với nó.
— Ông thấy đấy. - ông ta bối rối. Ông rất muốn lấy lòng Arxen, và ông ta cố hiểu, lão kia thích nghe lời đáp như thế nào. - Nói chung... Điều đó phụ thuộc vào trạng thái hoạt động của tim... Nói chung thì cô bé khoẻ như thế nào, gần đây có bị bệnh gì nặng không.
— Đừng làm đầu tôi rối lên đi, - Arxen nổi nóng. - Tôi làm việc với vợ ông dễ hơn. Cô ấy luôn luôn đánh giá rõ ràng cả tình huống, cả khả năng của mình, và không sợ nói ý kiến riêng. Nếu tôi có thể tự giải quyết được các vấn đề y học, tôi đã không trả cho anh những món tiền khổng lồ vì sự giúp đỡ. Vậy xin anh hãy làm việc cho xứng đáng một cách trung thực. Đấy, anh vừa tiêm cho con bé. Nó sẽ đủ cho bao lâu?
— Cho mười hai giờ.
— Tức ngày mai vào tám giờ sáng cần làm mũi tiếp theo?
— Về nguyên tắc, thì vâng.
— Về nguyên tắc nghĩa là sao?
— Điều đó đã là nguy hiểm. Mũi tiêm tiếp theo có thể giết chết nó. Con bé có thể sẽ không tỉnh dậy nữa.
— Thế, đã có chút rõ ràng, - Arxen khịt mũi. - Thế có thể là cả mũi tiêm sau cũng không làm hại nó?
— Tất nhiên. Thì tôi nói, điều đó phụ thuộc vào sức khoẻ, tim của nó...
— Nghĩa là tình huống trông có vẻ thế này, - Arxen kết luận. - Sáng mai anh khám cho con bé và báo với tôi, có thể làm mũi tiêm tiếp hay không. Nếu có thể - hãy cứ làm. Nếu không - tôi sẽ có quyết định, đánh thức con bé hay vẫn cứ tiêm thuốc. Cho đến sáng tôi còn đủ thông tin để có một quyết định.
— Nhưng ông hiểu cho rằng, sau mũi tiêm ngày mai nó có thể... - bác sĩ ngắc ngứ và nuốt nước bọt.
Arxen ngẩng đầu lên một chút và cắm cặp mắt nhỏ rất sáng của mình vào mặt người bác sĩ. Lão kéo dài khoảng im lặng, và sự im lặng của lão còn đầy biểu cảm và đe doạ hơn nhiều so với bất cứ những lời nghiêm khắc và chửi rủa nào. Cuối cùng tia sáng dữ tợn trong mắt cũng mờ đi, bộ mặt của lão già lại trở nên bình thường và chẳng có gì đáng kể.
— Hoàng đế sống thế nào? - lão hỏi gần như vui vẻ khi nghiên cứu lịch trình các chuyến tàu nội hạt lấy trong túi ra.
— Sezar ấy à? - tuyệt, ăn gấp hai, làm nũng gấp ba, thế nhưng tính hung dữ trong nó đủ cho cả chục con chó khác, - trong giọng bác sĩ vang lên nốt nhẹ nhõm không giấu diếm. Ông ta không chỉ muốn lấy lòng Arxen. Ông sợ lão khủng khiếp.
— Tôi không hỏi về cậu con, tôi biết về nó. Vợ khoẻ không?
— Cảm ơn, mọi chuyện chỗ chúng tôi ổn cả.
— Sao chỗ anh lạnh quá đấy, - lão già lại co rúm. - Con bé sẽ không bị cảm lạnh chứ?
— Nó được ủ ấm. Mà nói chung thì trong phòng nên thoáng đãng. Trong phòng nóng khó chịu đựng nổi giấc ngủ say do ma tuý, - bác sĩ giải thích một cách có uy tín, - Ông thấy đấy, ở đây chỉ có một hệ thống sưởi ấm, thế là đủ, còn ở phòng bên, nơi bọn trẻ của ông ngồi, ấm hơn nhiều. Ở đấy có hai hệ thống sưởi và thêm nữa bếp ga bật thường xuyên, họ luôn đun nước sôi.
— Thôi được, bạn ạ, đã đến lúc tôi đi, - cuối cùng Arxen đã chọn được chuyến tàu thuận tiện và chuẩn bị đi. - Sáng mai anh xem con bé, và 8 giờ 15 tôi đợi điện thoại của anh. Nếu tôi có quyết định không tiêm tiếp, hãy nói với đám võ sĩ để chúng đưa nó về thành phố và bỏ ở công viên nhỏ, chúng biết đó là ở đâu rồi.
— Thế nếu... - bác sĩ hỏi rụt rè.
— Lúc ấy hãy tiêm. Và đừng nhét vào đầu đủ thứ ngốc nghếch khác nhau.
Arxen ra khỏi phòng, xuống thềm và giẫm lên lớp tuyết lạo xạo dưới chân. Nơi đây, ở ngoại ô, là mùa đông thực sự. Tuyết không tan dưới chân và bánh xe mà nằm thành một lớp băng phẳng trắng muốt như đường. Lão già biết rằng từ trại thiếu niên vắng người về mùa đông (đó là trước kia, còn giờ đơn giản là trại trẻ) đến đường tàu, đi vừa phải thì mất đúng hai mươi ba phút.
Lão ra đi trước năm ba phút khi tàu đến để không một giây thừa tại bến tàu và không lộ mình một cách vô ích.
Cuộc trò chuyện với bác sĩ đọng lại trong lão, như thường xuyên, một cảm giác khinh dể. Già nua nhưng hèn nhát và nịnh bợ, dù tuyệt đối trung thành, ông ta làm Arxen ít thích hơn nhiều so với vợ ông ta. Chính cô ta mới là vật tìm được đích thực. Đơn giản là báu vật. Nhưng cũng không thể thiếu tay bác sĩ, cần giữ ông ta trên dây dắt ngắn, hoàn toàn không được làm ông ta sợ. Đấy, ông ta đã giúp trong việc với con bé. Arxen hiểu rõ rằng trả lại Nadia là nguy hiểm, nó đã biết tất cả và có thể giúp sờ nắn được những mối dây nào đó dẫn đến lão. Và đồng thời cần phải trả về để không làm mất ảnh hưởng đối với Larsev, cả đối với Naxtia. Phương án đánh thuốc mê con bé đã giải quyết vấn đề một cách lí tưởng: con bé không thấy không nghe gì cả, vì thế có thể trả nó về không một chút mạo hiểm gì, nhưng ông bố ương bướng sẽ hiểu rằng nếu xử sự tồi, thì lần sau người ta sẽ đối xử khác đi với con bé. Thực tiễn chỉ ra rằng, sự thể không bao giờ xảy ra đến lần thứ hai, những bậc cha mẹ cương cường sẽ trở nên lặng hơn nước, thấp hơn cỏ, nỗi kinh hãi đã trải qua thời gian vắng đứa trẻ đủ cho họ trong quãng đời còn lại. Việc bắt cóc Nadia là lần thứ năm trong hoạt động của Arxen và văn phòng của lão, và trong những vụ này bác sĩ là người tuyệt đối không thể thay thế.
Arxen bước lên sân ga ngay vào thời điểm khi trước mặt lão cánh cửa tự động của toa tàu mở ra. Lão bước vào toa tàu ấm áp, ngồi vào một góc, tựa đầu vào tường và nhắm mắt.
***
Đại tá Gordeev suy ngẫm các tin tức mà Meserinov đưa về từ bà goá Nikiforov. Hôm qua, 29 tháng 12 Gordeev nhận được thông tin đầu tiên về sự đồng phạm của Gradov trong việc xảy ra ở căn hộ của Eremina. Tiếc rằng điều tra viên Xmelianov không nhớ các thanh niên được cấp tốc “dọn” khỏi hồ sơ vụ án hình sự, đã học ởtrường nào. Trong khi Naxtia “tính ra” Gradov, tìm ra hắn qua sự trùng hợp địa chỉ của một trong số những kẻ bị tình nghi của vụ án này, trong khi thu thập cứ liệu và làm sáng tỏ hắn đã học ở trường đại học nào, đã qua đi không ít thời gian. Trong tính toán thông thường đó chỉ là mấy giờ, sự vớ vẩn nhất, nhưng trong cuộc đời của các nhân viên tác chiến, mấy giờ này biến thành vực thẳm không thể vượt qua, Gordeev đã không kịp bước qua nó: khi trước ông có tài liệu của hai năm trước về việc phát hiện ra thi thể Nikiforov, Naxtia đã ở nhà, và không thể gọi điện thoại cho chị. Giờ đây Gordeev thật tình tiếc về điều này, bởi vì trong các lài liệu đó chứa đựng một chi tiết rất quan trọng. Hồi ấy, hai năm trước, cái chết của Nikiforov được công nhận là trường hợp tai nạn. Thiếu gì chuyện kẻ say rượu chết khi không thể chống chọi nổi với sự cuốn hút đến với hơi men, bất chấp sự ngăn ngừa nghiêm khắc nhất của bác sĩ cai nghiện? Các nhân viên công an đã làm tất cả một cách trung thực, nhưng đã không thể tìm ra kẻ thù nào của tay dịch giả nghiện ngập, cũng không thể hiện những động cơ vụ lợi. Nhưng hôm nay cái chi tiết này được bao bọc bởi tất cả những gì đã xảy ra qua hai tháng gần đây, đã rọi ánh sáng lên hoàn cảnh cái chết của Nikiforov. Vì thế, ngay hôm qua Gorđeev đã ra lệnh cho thực tập viên Meserinov đến nhà bà vợ goá của người chết.
Gordeev không thể biết rằng, lập tức sau khi nhận nhiệm vụ, Meserinov đã báo cáo hết với Arxen.
— Hãy đi, nhưng trước khi báo cáo lên Gordeev, hãy liên lạc với tôi, tôi sẽ định hướng cho cậu, - lão già ra lệnh.
Buổi tối Meserinov không gặp người đàn bà, bà làm hầu bàn và không thể thoát khỏi công việc trước một giờ rưỡi đêm, mà quấy rầy bà vì một vấn đề tế nhị như thế thì tay thực tập viên không dám. Hắn xuất hiện chỗ bà vào buổi sáng, làm rõ mọi điều hắn quan tâm, và mô tả tất cả một cách sinh động với Arxen. Đến thời điểm đó thủ lĩnh văn phòng đã biết rằng Gordeev vừa gọi điện thoại cho Naxtia và than vãn về áp lực tích cực từ “trên”. Thông tin về Nikiforov chỉ củng cố lão trong quyết tâm cắt đứt với Gradov, để mặc hắn tự mình tháo gỡ.
“Ái chà, Gradov của chúng ta đúng là đồ đểu”, - Arxen ngẫm ngợi với sự giễu cợt khi nghe câu chuyện ngắn gọn rõ ràng của tay thực tập. Còn ít là đã giấu chuyện xưa với vụ giết Lusnicov, thế mà lại còn im cả về kẻ đồng loã của mình. Hoàn toàn coi Arxen già nua là kẻ ngốc. Thủ lĩnh văn phòng đã quen là những người nhờ cậy lão hoàn toàn tin lão như bệnh nhân tin bác sĩ. Lẽ nào một người bình thường sẽ nghĩ chuyện che giấu bác sĩ một nửa những triệu chứng bệnh tật và sau đó hi vọng rằng người ta sẽ giúp cho anh khoẻ manh lại? Nếu Gradov không hiểu những điều giản đơn như thế, thì hắn chả có hi vọng gì ở văn phòng và về lão, Arxen.
— Có thể kể cho thủ trưởng của anh mọi thứ như nó có, - lão cho phép Meserinov với vẻ ban ân.
***
Nếu đại tá Gordeev biết sự thật, hẳn ông sẽ cười nhạo rằng, khi gây ra sai lầm và tin tay thực tập, kết quả lại nhận được thông tin xác thực. Nhưng vào thời điểm ấy ông chưa biết sự thật, vì thế đã không nghĩ sâu về sự đan xen phức tạp của cuộc chiến giữa chân lí và giả trá.
Bà goá Nikiforov kể rằng, tháng cuối trước khi chết, chồng bà đã uống nhiều hơn bình thường và đêm đêm hay gọi cho Gradov nào đó, khóc, nhắc đến tên “Victoria”. Người phụ nữ không biết Victoria và Gradov là ai, và hai năm trước đây đi tìm họ giữa Moskva nhiều triệu dân là điều không thể. Mà để làm gì cơ chứ, nếu cái chết của Nikiforov trông không có vẻ hình sự? Ngoài ra, bà kể rằng, chồng bà nhiều lần khơi chuyện với bà về những đứa trẻ.
— Em nghĩ thế nào, - ông hỏi, - bọn trẻ ba tuổi có hiểu những chuyện gì xảy ra xung quanh không? Mà em nghĩ sao, khi lớn lên chúng có nhớ về những gì đã từng có khi chúng còn bé không? Đấy, em nhớ mình vào tuổi trẻ con không? Sao có sự quan tâm nóng bỏng như thế đến tâm lí trẻ nhỏ, Nikiforov không bao giờ giải thích. Nhưng một lần đã buột miệng rằng, anh ấy nói, rất muốn biết, con gái sẽ nhớ anh ấy khi lớn lên hay không. Bà vợ đầu của anh ấy mang theo đứa bé và gây dựng gia đình mới, đã gạch toẹt anh ấy khỏi cuộc đời con bé.
Sự giải thích có vẻ khá thuyết phục đối với bà vợ thứ hai, nhưng hoàn toàn không thoả mãn Gordeev, người nắm được sự mô tả về cuộc sống chi tiết của nhà ngoại giao không thành, lập tức hiểu ngay rằng, vào thời điểm li hôn, con gái của Nikiforov không phải lên ba mà mới một tuổi rưỡi.
Chi tiết quan trọng nhất lại chính là nhân thân của người qua đường đã tình cờ phát hiện ra thi thể Nikiforov trong một ngách tối gần toà nhà ga metro. Ông ta tình cờ vấp phải một người nằm bất động, đã định chạy đi gọi xe cấp cứu khi nghĩ rằng người kia có thể vẫn còn sống, nhưng trông thấy chiếc xe tuần tra chạy ngang qua đó, đã vẫy hai tay gọi công an đến giúp. Tên của người qua đường ấy là Fictin.
***
Gordeev ghé qua chỗ Jerekhov. Mọi việc chỗ phòng ông này đã kết thúc, thi thể Morozov đã được khiêng đi. Các giám định viên đã làm tất cả nhữnc gì cần thiết và đi rồi, để lại sau mình mùi nhẹ của các chất phản ứng.
— Larsev thế nào? - đại tá hỏi từ ngoài cửa.
— Đã đến Hội thợ săn và câu cá, sau đó cánh trẻ để mất cậu ta, bây giờ đang cố tìm cho ra.
— Jerekhov này, Larsev sờ được gì đó rồi. Cậu ta đang tìm một người nào đó cụ thể, hãy cử thêm người theo sau cậu ấy. Cần bảo hiểm cho cậu ta. Do tuyệt vọng Larsev có thể bị cùn nhụt đi cảm giác nguy hiểm.
— Tôi sẽ làm, - Jerekhov gật đầu.
— Tin tức về bác sĩ Rascova?
— Không có gì đáng ngờ. Sống với chồng nghỉ hưu. Chồng say mê tem thư. Không thấy có sự dư giả trong nhà. Con cái sống riêng. Không có gì để có thể bám vào.
— Thôi được, nghĩa là tôi sợ quá hoá cẩn trọng thừa, hoàn toàn mất sự nhạy cảm. Giờ là chuyện khác. Tăng cường việc theo dõi Fictin. Điều này có thể là rất thú vị.
— Anh Gordeev, hãy nghĩ anh đang nói gì! - Jerekhov lắc đầu vẻ buồn bực. - Lấy người ở đâu? Chỗ chúng ta thử hỏi có mấy người. Nếu sự vụ do bộ trưởng kiểm soát, lúc ấy hẳn chúng ta sẽ nhận được bao nhiêu lực lượng và phương tiện mà chúng ta xin. Còn vụ này thậm chí không nằm trong sự kiểm soát của Cục trưởng Cục điều tra hình sự Moskva. Vậy tôi đẻ ra mọi người chắc? Hôm nay để kiểm tra tình hình cạnh nhà Naxtia và thực hiện nhiệm vụ về bác sĩ Rascova mà anh giao, tôi đã gỡ việc theo dõi Fictin. Bây giờ anh lại cần người chạy theo Larsev. Tôi sẽ làm việc đó. Còn lấy ở đâu ra người theo dõi Fictin - tôi không nghĩ ra nổi. Gontsarov ngày hôm nay đã trách tôi ba lần rồi, và lần sau đau hơn lần trước. Và anh ta, dẫu thế, vẫn đúng, anh Gordeev ạ. Chúng ta không có một kế hoạch rõ ràng, chúng ta lắc lư từ bên này sang bên nọ, làm những cử động cơ thể co giật khi hoàn toàn không hiểu điều gì sẽ xảy ra vào phút tiếp theo. Nhưng đó là những khó khăn của anh và của tôi. Chả thông thái gì việc Gontsarov nổi điên. Chúng ta xáo đi xáo lại vô tận người của anh ta, thay đổi nhiệm vụ khi chưa kịp thực hiện chúng cho ra hồn...
— Rồi có lúc tôi sẽ giết anh mất thôi, - Gordeev nổi đoá. - Và anh chết vẫn chỉ là kẻ bảo thủ và cau có. Anh sao đấy, không có bạn bè ở các đồn công an hử? Anh sao đấy, năm đầu tiên sống ở Moskva, chưa thiết lập được các mối quan hệ hay sao? Hãy gọi điện thoại, cầu khẩn, hứa cả téc vodca và toa tàu thức nhắm, anh có lăn quay ra đấy cũng mặc nhưng sau nửa giờ Fictin phải có “đuôi”. Hết, Jerckhov ạ, kết thúc. Tôi biết anh không thể chịu nổi khi phải làm không đúng quy định, lại càng không thích yêu cầu ai đó vi phạm sự chỉ dẫn.
— Hãy xổ toẹt vào cái điều anh thích và không thích. Cứ coi đó là mệnh lệnh. Nếu có gì không đúng - tự tôi sẽ chịu trách nhiệm.
Nặng nề thở dài, Jerekhov với tay đến điện thoại.
***
Bọn trẻ do chú Colia phái đi theo dõi Arxen, tuyệt vọng ngó theo chuyến tàu đi xa dần. Chúng có nhiệm vụ làm rõ địa chỉ của lão già, nhưng từ chỗ gặp gỡ với chú Colia, lão đi ra ga Iaroxlav và lên tàu nội hạt. Bọn trẻ đi cùng với lão đến ga lão cần. Lão già bước đi chậm rãi về phía rừng trên con đường hoàn toàn vắng vẻ. Đi theo sau lão ở khoảng cách nhỏ là mạo hiểm, vì thế bọn trẻ vớ được một bà béo với túi xách lỉnh kỉnh cạnh sân ga đã xuống từ chính đoàn tàu đó.
— Thưa cô, làng ở phía kia ạ? - chúng hỏi, chỉ tay về hướng Arxen vừa đi.
— Không, làng ở phía này cơ, - người phụ nữ giải thích sốt sắng. - Còn phía các chú chỉ, không có gì, chỉ có một trại thiếu nhi thôi.
— Thế đến trại có xa không?
— Chừng nửa giờ thôi. Các chú trẻ, có thể cần ít hơn.
— Cảm ơn cô ạ, - bọn trẻ cảm ơn.
Quyết định được chấp nhận là đơn giản. Khi đã không thể đi theo Arxen ở khoảng cách gần, vì đường vắng và đi sau lão ở khoảng cách xa là vô nghĩa, bởi đã tối hoàn toàn và không trông thấy gì, phải thả lão và đi đến trại muộn hơn. Lão cũng chẳng thể đi đâu nổi ngoài đến trại.
Sự tính toán hóa ra đúng. Ở lại trại và chịu lạnh cóng chừng ba mươi phút, bọn trẻ thấy lão già ra khỏi cổng và bằng bước tự tin đều đặn đi về phía nhà ga. Chúng để lão đi xa hơn để khỏi nghe thấy tiếng lẹt xẹt của bước chân trên tuyết, và đi phía sau giữ nhịp theo Arxen. Sai lầm khi phía xa vang lên tiếng còi và tiếng gõ của bánh tàu, Arxen lúc đó chỉ cách sân ga ba mươi mét. còn bọn trẻ - còn cách xa hơn nhiều. Chúng dấn bước, sau đó lợi dụng tiếng ồn của đoàn tàu đang đến gần, chuyển sang chạy. Dẫu vậy vẫn không kịp. Vào giây chót chúng bị đoàn tàu đi ngược lại chắn ngang. Hội ý chớp nhoáng, bọn trẻ của chú Colia quay trở lại trại, thận trọng di vòng quanh khu nhà và phát hiện ra trong dãy nhà khu quản trị có hai gã đàn ông ngồi trong bóng tối ở văn phòng giám đốc. Nói chung không đâu có ánh sáng, chúng chỉ nhận thấy điểm sáng yếu ớt của máy lò sưởi điện.
— Sự quỷ quái gì đây, - gã trai không cao, tóc vàng hoe tên là Xlavic, trước kia vốn là vô địch đua ôtô, nhún vai vẻ phân vân. - Tao không hiểu có bao nhiêu đứa trong đó. Ba đứa phải không?
— Hình như hai, - kẻ đi cùng hắn, một tên không cao, cằm bạnh, tóc sáng thì thào vẻ lưỡng tự khi đang căng thẳng ngó qua cửa sổ vào căn phòng mờ tối. - Quỷ mới biết, chả thấy gì cả.
— Bọn chúng khóc đấy, - Xlavic đánh giá. Đang trốn ai đó chăng?
— Chăng, chăng cái khỉ gió, - gã tóc sáng giễu lại một cách cay độc. - Có thể, không phải trốn ai mà đang canh giữ ai đó. Hoặc bày trò phục kích và đang rình.
— Chúng rình ai? - Xlavic lo lắng. - Rình chúng ta chăng?
— Ôi, đồ ngu. Cậu có thể nói dù chỉ một câu thiếu chữ “chăng” của cậu không?
— Cút mẹ mày đi - cựu vô địch đua ô tô ném ra hờ hững. - Chúng ta sẽ làm gì tiếp?
— Phải gọi điện thoại cho chú Colia, để ông ấy chỉ đạo, - gã tóc sáng đáp khi sửa lại khẩu súng máy cưa nòng dưới tấm áo khoác rộng. - Và có gì ăn cũng không tồi. Dù sao thì chúng ta cũng để xổng mất lão già, vậy chẳng đi đâu mà vội. Khi nào thì chúng ta vẫn kịp nhận lời chửi rủa của chú Colia.
— Điều đó thì chính xác, - Xlavic tiếp lời. - ông sẽ bắt chúng ta dựa vào tường.
Chúng đi tới sân ga, đi đến làng và tìm được bưu điện mà từ đó có thể gọi điện thoại về Moskva.
Chú Colia không bằng lòng tột độ, nhưng không để mất thì giờ cho việc quát tháo. - Bỏ xổng lão già là điều tồi tệ. Thế nhưng tìm được những kẻ nào đó của lão, đó đã là tốt. Hôm trước Arxen nói gì về quần ướt và tay đẫm mồ hôi ấy nhỉ? Cứ để bây giờ sẽ biết rằng Fictin luôn nhớ sự xúc phạm. Và không chỉ nhớ đơn thuần, mà sẽ trả lại đủ vì chúng. Tất nhiên, Fictin muốn thanh toán với lão già có hại và nguy hiểm, nhưng lúc này điều đó không phải là chủ yếu.
Quan trọng nhất làm Arxen sợ, cho lão hiểu rằng trong tay chú Colia có một lực lượng mạnh, rằng hắn không ngu đần và đơn giản như thoạt nhìn. Chủ yếu - bắt lão già nhăn nheo phụ thuộc mình và bắt thực hiện thoả thuận với chủ nhân. Cứu chủ nhân và củng cố địa vị của hắn - đó là nhiệm vụ tiên quyết.
— Hãy quay về thành phố, lấy xe và thêm hai người nữa, rồi đi đến trại và sắp xếp lại trật tự. Đừng để sự bẩn thỉu lại, hãy mang theo và ném vào rừng, xuống rãnh, - hắn ra lệnh.
Dẫu sao thì đầu óc của Ficlin cũng nghèo nàn, giết người và ném xác vào rừng là đỉnh cao tối đa trong tầm bay trí tưởng tượng của hắn.
***
Dakhno lại tiếp tục xáo lộn trong túi tìm valocordin, không quên sụt sịt đúng lúc, và lạnh lùng suy nghĩ về việc không thể để cho vị khách thoát ra khỏi nhà. Mụ cần cấp tốc liên lạc với Arxen, nhưng lúc này một mình mụ, không chồng, không con, không thể làm điều đó. Đành phải kéo dài thời gian, cho đến lúc có ai đó trở về. Tiếc rằng, tình huống có thể kéo dài chỉ với một thời hạn không xác định, ông chồng đi ra ngoại ô đến nơi Arxen giam giữ con gái của Larsev, và có thể không chóng quay về. Con trai thì nói chung không rõ bao giờ trở về, cô thế sau một phút, mà có thể, vào lúc nửa đêm.
Mụ cảm thấy rằng vở kịch đã thành công và ông bố bất hạnh đã tin mụ. Mụ có một linh cảm khác thường, ngửi thấy mùi của sự bi phẫn và sự ngờ vực, như một động vật, và điều đó cho phép mụ đánh giá không hề nhầm lẫn và xác định chính xác cái giới hạn mà sau nó là bắt đầu sự mạo hiểm nguy hại, nhưng có thể diễn cho đến điểm đó. Arxen đặc biệt đánh giá phẩm chất này của mụ và lặp lại nhiều lần:
— Khi Chúa trời phân phát cảm giác mức độ và khả năng tiếp cận với sự mạo hiểm hợp lí, có lẽ cô đứng ở hàng đầu. Còn nhờ việc đi săn cô còn thêm được kĩ năng cảm giác mối nguy hiểm và sức chịu đựng. Vì thế tôi tuyệt đối tin vào linh cảm của cô.
Dakhno đúng là người Xibia, sinh trưởng trong gia đình thợ săn, chi tiết mụ không nói dối Larsev. Thi vào trường đại học Y khoa Moskva, tốt nghiệp với học bổng Lenin, học bắn, tham gia đội xạ thủ của trường và liên tục thắng trong các cuộc thi, sau đó là thực tập sinh, trợ lí, nghiên cứu sinh, sự cất nhắc vào làm việc tại phòng khám đa khoa của KGB. Mụ lấy chồng là một người học cùng khoá, người đã không đạt được đường công danh rực rỡ khi làm công việc bác sĩ gây mê ở một bệnh viện thành phố. Dakhno, vốn là sĩ quan KGB kiếm được tiền nhiều hơn chồng, bằng cách ấy bắt ông ta lâm vào tình thế bị phụ thuộc, sự phụ thuộc càng trở nên sâu thêm bởi sự yếu đuối của bản thân và bởi sức mạnh đạo đức khó so bì của mụ. Một điều tệ hại, họ không có con. Dakhno lợi dụng mạng lưới quan hệ rộng trong ngành y, đã qua những cuộc chữa chạy có thể và không thể, nhưng chẳng gì giúp được mụ. Khi không còn hi vọng về việc sinh được đứa con của mình, vợ chồng Dakhno đã tìm cách nhận ai đó làm con nuôi, nhưng người ta từ chối yêu cầu đó vì điều kiện nhà ở không phù hợp: họ sống trong căn hộ một phòng cùng ông bố chồng già, và dù họ đã đứng xếp hàng nhận phân nhà, nhưng đến lượt họ phải cả chục năm nữa, không sớm hơn.
Bất hạnh rơi xuống Dakhno chỉ trong vòng một giờ. Ngay trước đó, sau một khoá chữa chạy đau đớn, phán quyết cuối cùng đã dành cho mụ: mụ không bao giờ có con nổi. Các loại vô sinh như thế không chữa chạy nổi ở đâu trên thế giới này, và mọi cố gắng tiếp theo chỉ làm hao tốn sức lực mà thôi.
Mụ đã khóc suốt đêm, buổi sáng nuốt thuốc an thần và lê người đến nơi làm việc. Đầu như nứt ra, tim đau, thỉnh thoảng nước mắt lại ứ lên, cuộc sống có vẻ đã mất đi mọi ý nghĩa. Nhưng ngay đó, một vị thiếu tướng, Phó Cục trưởng của một Cục, với da dẻ đỏ đòng đọc vì rượu, với hơi men và giọng trầm kiểu chỉ huy. Ghê chưa, hông ông ta đau. Không sao, đau một chút rồi khỏi, - bác sĩ phẫu thuật Dakhno bực dọc nghĩ trong khi kê đơn thuốc đau thận cho vị tướng và hẹn ông ta sau ba ngày đến khám lại.
Sau ba ngày vị tướng đến, có phần nhợt nhạt, nhưng vẫn đầy mùi rượu như thế. Và chết. Ngay trong phòng làm việc của hác sĩ phẫu thuật Dakhno. Hoá ra, vị tướng bị đau ruột thừa dần dần chuyển sang viêm ruột thừa, nhưng ông ta phải chịu đựng suốt bốn ngày, khi kìm nén nổi đau không thể chịu đựng bằng phương cách dân dã từ lâu dã được thử thách. Kết luận của uỷ ban y khoa nói rằng, các triệu chứng bệnh đau ruột thừa là hiển hiện ngay tại thời điểm bệnh nhân gặp bác sĩ Dakhno lần đầu tiên, nhưng bác sĩ không tiến hành những khám xét cần thiết và chỉ định sự điều trị không đúng, bằng cách ấy thể hiện sự thờ ơ tội lỗi kéo theo cái chết của bệnh nhân. Viễn cảnh mất tự do đã lấp ló rất gần, Dakhno đã cảm thấy trên mặt mình hơi thở của nó. Và bỗng xuất hiện Arxen.
— Tôi muốn giúp cô, cô Dakhno ạ, - lão nói ngọt ngào, - bởi cô là người tốt, một bác sĩ tuyệt vời, đơn thuần là số phận ngáng chân cô, và cô vấp phải nó. Vào tù phải là những tên tội phạm đích thực, những kẻ đểu giả lì lợm, chứ không phải những người đứng đắn gặp nỗi bất hạnh. Cô đồng ý với tôi không?
Dakhno lặng lẽ gật đầu và chùi nước mắt.
— Hôm nay tôi giúp cô, còn ngày mai cô sẽ giúp tôi, thoả thuận nhé? - trong khi đó Arxen tiếp tục. - Tôi với cô sẽ cứu những người tốt, những người xứng đáng không may bị rơi vào bất hạnh, Nếu cô trở thành chiến hữu của tôi, cô sẽ có một căn hộ tốt, và tôi sẽ giúp cô có con nuôi. Cô sẽ có không phải một đứa trẻ thừa vớ vẩn nào đó với gen của bố mẹ say rượu, mà là một đứa con tốt nhất, khoẻ mạnh nhất, thông minh tài giỏi nhất nếu có thể tìm ra nổi. Thật ra, đó không phải đứa trẻ sơ sinh, phải là trẻ vị thành niên, mà tôi với cô cần phải biết chắc về sức khoẻ, tâm lí và trí tuệ của nó, chứ với những trẻ sơ sinh thì có thể sai lầm. Ngoài ra, cô sẽ có được khả năng chuyên chú vào trò đi săn ưa thích của mình. Thế nào, cô đồng ý chứ?
Dĩ nhiên mụ đồng ý. Mà cũng chả thế nào khác được. Arxen không bao giờ cố gắng thu phục những người mà lão chưa để mắt đến từ trước. Tất cả những gì lão biết về Dakhno chứng tỏ một cách không bàn cãi rằng mụ chính là người cần thiết. Và lão đã không nhầm.
Sau những điều khó chịu với vị tướng, đành phải bỏ nghề y. Arxen bố trí cho mụ công việc ở Phòng thống kê và quản lí của một trong những đầu mối điện thoại Moskva. Lương như nước mắt muỗi, nhưng những nhiệm vụ của Arxen được trả hào phóng đến độ chả bao lâu những mơ ước thầm kín nhất của Dakhno và chồng đã trở thành hiện thực. Họ có căn hộ tuyệt vời, ôtô, vũ khí đắt tiền, tiếp theo là nhà nghỉ mà tất cả tiền được bỏ vào đó để làm nó thành một lâu đài đích thực giữa thiên nhiên. Không phải Dakhno không yêu quý căn hộ thành phố của mình, đơn thuần mụ không muốn phô trương sự giàu sang với những người Moskva quen biết. Thế nhưng mụ với chồng đã bỏ toàn tâm vào nhà nghỉ. Và họ đã dạy dỗ con trai như ý muốn của Arxen...
Dakhno ném ánh mắt nhìn đồng hồ. Đã gần chín giờ tối. Mụ còn kéo dài được bao lâu để không gợi nghi ngờ ở nhân viên tác chiến? Đã hai lần mụ ở ngưỡng ngất xỉu, lần thứ ba thì đã là thừa, mụ sẽ không bao giờ thắng nổi. Cần cố khơi gợi cho Larsev nói chuyện.
— Vợ anh có lẽ đang tuyệt vọng, - mụ nói bằng giọng có lỗi. Tôi không bao giờ tha thứ cho bản thân... Không có nỗi đau nào hơn nỗi đau người mẹ.
— Vợ tôi mất rồi, - Larsev buông ra kiệm lời. - Và dẫu sao, chị Dakhno ạ, ta hãy cùng một lần nữa cố hồi phục lại tất cả những gì chị biết về người đó.
Ổ khoá cửa có tiếng chìa ngoáy, cửa sập lại.
— Mẹ ơi, mẹ có nhà không? - Larsev nghe thấy. Anh cảm thấy một giọng mơ hồ quen thuộc.
Anh ngoái lại phía cửa và cấm mắt vào cái đầu hươu nhồi trên tường. Và chính thời điểm đó anh chợt hiểu rằng, anh đã sai lầm kinh khủng không thể cứu chữa. Người đàn bà trò chuyện với anh đã hai giờ đồng hồ, không thể là thợ săn được. Nước mắt, lời rền rĩ và sự ngất xỉu mà anh được cho ăn đầy rẫy nơi này không thể nào là của người đàn bà quen hàng mấy giờ liền kiên nhẫn chờ đợi, đứng bất động trong rừng mùa đông trong sự cô đơn tuyệt đối và chờ khi nào con lợn rừng nổi đoá xông vào người, người đàn bà bơi trên thuyền trong những bụi lau sậy cao hai mét trong thời gian săn vịt trời, khi rất dễ mất định hướng và bị lạc, người đàn bà đã quen giết chim thú và làm đổ máu. Và con chó trong căn hộ cũng không phải chó săn, mà là chó cảnh sát, loại doberman thuần chủng vẫn thực hiện chức năng vệ sĩ, không cho phép làm phật ý chủ nhân và không cho vị khách không mong muốn vào nhà. Nếu người thợ săn đích thực có thể nuôi chó, thì anh ta tất nhiên sẽ kiếm một con laica, setter hay gì đó từ loài terier. Còn nếu người thợ săn giữ một con doberman, điều đó có nghĩa là trong cuộc sống của anh ta có những thứ nghiêm trọng và nguy hiểm hơn nhiều so với việc đi săn... Anh, Larsev, đã cho phép bị đánh lừa. Trong anh, kẻ bị dày vò và suy sụp, bị mù do nỗi sợ cho đứa con gái mười một tuổi, nhà chuyên nghiệp đã thức tỉnh một cách quá muộn mằn. Larsev vớ lấy súng lục, nhưng Meserinov bước vào phòng đã kịp giật khẩu súng săn treo trên tường. Tiếng súng nổ vang lên cùng một lúc.