Dấu chân của chúa - Chương 20
Dấu chân của chúa
Chương 20
Ngày đăng 28-12-2015
Tổng cộng 46 hồi
Đánh giá 9.1/10 với 42259 lượt xem
Khi chúng tôi đến được Raleigh thì trời đã tối. Đi hết đường cao tốc 64, chúng tôi rẽ vào I-40, sau đó vòng lại qua Công viên Tam giác Nghiên cứu, chuyển sang hướng Tây về phía Tennessee.
“Trông kìa,” Rachel nói khi nhìn những ánh đèn thân thuộc loang loáng trôi qua. “Lúc trời tối như thế này, tôi gần như tin rằng anh sẽ thả tôi về nhà tôi ở Durham, và tôi có thể vào nhà uống một tách trà.”
“Giờ thì cô biết rõ hơn rồi đấy.”
Cô nhìn tôi hồi lâu rồi khẽ thở dài trong bóng tối.
“Tôi thật tiếc đã kéo cô vào tất cả chuyện này,” tôi nói. “Tôi cũng chưa có lúc nào xin lỗi cô cho phải.”
“Tự tôi dấn vào chuyện này đấy chứ.”
“Không. Tôi đã kéo cô vào từ lúc tôi chọn cô làm bác sĩ tâm thần cho mình.”
Vẻ mệt mỏi trên mặt Rachel cho thấy cô đã quá quen với việc phải xử lý những lỗi lầm của người khác.
“Đừng cố mà đoán mò thói đỏng đảnh của số phận. Nếu có một con bướm nào vẫy cánh ở Malaysia trước khi anh gọi, có thể anh đã tìm thấy một người khác. Đời là thế.”
Trước đây, tôi cũng đã tự nhủ thế về những chuyện tương tự, nhưng trong trường hợp này tôi không thể nào tin vào nó.
“Không, tôi tìm ra cô vì cô là người giỏi nhất trong lĩnh vực của mình. Một nhà phân tích theo trường phái Jung thì không giống một bác sĩ tâm thần thông thường. Tôi biết nói điều này ra nghe có vẻ trẻ con, nhưng tôi có cảm giác rằng số tôi là phải tìm cô.”
Cô nhìn tôi với đôi mắt thông cảm vô hạn, nhưng đằng sau vẻ thông cảm tôi thấy nỗi đau. Bằng cách nào đó, tôi đã chạm vào nỗi niềm sâu lắng của cô. Khi cô nói, giọng cô nghe thật hờ hững.
“Thật dễ khi tự nhủ rằng những gì xảy ra với ta là tiền định. Điều đó an ủi ta. Nó cho ta cảm giác hình như còn có một kế hoạch gì to lớn hơn. Tôi nghĩ tôi và chồng tôi có duyên sống với nhau. Nhưng chúng tôi đã không sống được như thế. Đó chỉ là một lựa chọn tồi mà tôi đã coi là vận mệnh cho có vẻ hợp lý. Thật ra điều này thảm hại làm sao.”
“Thảm hại ư? Cuộc hôn nhân ấy đã đem lại cho cô một đứa con mà.”
“Vậy ai đã chết trong đau đớn và sợ hãi khi tuổi mới lên năm?”
Giọng cô có vẻ cáu giận. Trong bao năm hành nghề y, tôi đã từng thấy nhiều trẻ em chết, nên tôi hiểu điều đó ảnh hưởng tới những người làm cha mẹ như thế nào. Họ có thể bị suy sụp đến mức không thể gượng lại nổi. Ngay cả các y bác sĩ cũng không tránh khỏi điều này. Cái vỏ chuyên nghiệp dễ dàng tan chảy trước một đứa trẻ chịu đau đớn. Đối với tôi, nỗi đau đớn này - nỗi đau của lũ trẻ ngây thơ - là trở ngại đầu tiên đối với niềm tin vào Thượng đế.
“Cô với con cô còn có năm năm yêu thương nhau vô điều kiện. Chẳng lẽ cô lại muốn nó không ra đời để rốt cuộc cả hai người khỏi phải chịu nỗi đau ấy sao?”
Cô trừng trừng nhìn tôi phẫn nộ. “Gì anh cũng nói được à? Anh không e dè trước một giới hạn nào cả.”
“Không, nếu như ta có quyền vượt qua chúng.” Tôi đang nói về chuyện mất đứa con của chính tôi, và cô biết điều đó.
Cô lại nhìn ra ngoài cửa sổ. “Thôi không nói chuyện này nữa.”
“Chúng ta đâu có cần phải nói. Nhưng chúng ta cần được tiếp tế đấy. Tôi sắp sửa dừng xe trước cửa hàng Wal-Mart mở cửa suốt đêm ở Winston-Salem hay Asheville. Như vậy cô có vài giờ để ngủ.”
“Tôi mệt bã người rồi,” cô thừa nhận.
“Ghé lại đây.”
“Cái gì?”
“Cô tựa vào đây?”
“Vào vai anh ấy à?”
“Không. Can đảm lên. Cô nằm cuộn người trên ghế và gối đầu lên đùi tôi.”
Cô lắc đầu, nhưng không phải để từ chối. Tôi chăm chú nhìn đường. Sau vài phút, cô tuột giày, nằm gập chân và gối đầu lên bắp đùi phải của tôi. Tôi có cảm giác đôi mắt cô vẫn mở, nhưng tôi không nhìn xuống. Tôi hạ thấp bàn tay phải và bắt đầu xoa vuốt trán cô, luồn tay vào tóc cô.
“Anh làm tôi nhớ lại hồi bé,” cô nói.
“Tôi không nói chuyện với cô đâu. Nhắm mắt lại.”
Lát sau, cô nhắm mắt.
Chúng tôi đến Asheville lúc mười giờ ba mươi tối. Cửa hàng Wal-Mart rực rỡ ánh đèn trông như một ốc đảo trong bóng tối, và tôi đã chạy qua biên giới bang. Đầu Rachel vẫn tựa trên đùi tôi, cẳng chân phải của tôi dường như tê dại cả đi. Cô không có phản ứng khi tôi nói. Tôi những muốn để cô lại trên xe để vào cửa hàng, nhưng tôi không muốn cô tỉnh dậy thấy có một mình nơi đỗ xe. Còn có khả năng cảnh sát địa phương đã nhận được tin báo từ những người ngư dân bị mất xe nữa. Để tránh bị phục kích khi chúng tôi ra khỏi cửa hàng, tôi đánh thức Rachel dậy rồi kéo tuột cô vào trong dãy cửa kính, tại đấy cô có thể nhận ra ngay kẻ nào tỏ ra quan tâm quá mức đến chúng tôi trong chiếc Ram màu nâu đỏ.
Tôi đi thẳng đến gian hàng bán đồ thể thao và bắt đầu nhặt các thứ cần thiết, bên cạnh một quầy thu tiền vắng người. Lều trại hai người. Túi ngủ. Ba lô. Đèn dầu, dây may so và dầu. Tại một gian khác, tôi chọn bộ áo liền quần ngụy trang Silent Shadow, khăn trùm đầu, ủng cao su ngụy trang và đồ lót cách nhiệt. Ở một gian hàng khác nữa, tôi chọn một chiếc cung bằng nhựa tổng hợp, tám mũi tên và ống đựng tên. Cuối cùng, tôi chất lên trên đống hàng một chiếc la bàn, một ống nhòm, một dao găm Gerber, thuốc khử trùng, một đèn pin Maglite và hai điện đài xách tay chạy bằng pin. Rồi tôi tìm người bán hàng để tính tiền tất cả chỗ đó.
Thiếu phụ Mexico mà tôi tìm được có vẻ nghi ngờ tiền mặt của tôi. Trong khi cô ta kiểm tra từng tờ 100 đô xem thật hay giả, tôi vào gian hàng hóa mỹ phẩm mua thuốc đánh răng, bàn chải răng và xà phòng. Tổng số tiền hàng lên tới 1.429,84 đô. Trả tiền xong, tôi đẩy xe hàng ra tiền sảnh, để đấy cho Rachel, rồi lấy một chiếc xe khác sang gian hàng tạp phẩm, lấy đủ các thứ giúp chúng tôi sống qua vài tuần, không quên mấy chai nước uống. Trên đường ra quầy thanh toán, tôi thầm nghĩ ngạc nhiên làm sao khi giữa đêm hôm khuya khuắt, tôi lại từ đường cao tốc ghé vào một cửa hàng phục vụ 24/24, tự trang bị cho mình đầy đủ để có thể sống dài ngày nơi hoang dã. Cha tôi chắc không thể tin nổi chuyện này.
Khi tôi ra, Rachel giơ ngón tay ra hiệu OK, và tôi thở nhẹ nhõm hơn. Ở cửa ra, một tay bảo vệ chặn tôi lại nhưng chỉ để kiểm tra số hàng mang ra so với biên lai. Mười giây sau chúng tôi bước qua bãi đậu xe. Tôi quẳng các thứ mua được vào sau ghế ngồi, giúp Rachel lên xe, rồi chạy trở lại đường I-40.
Ngay trước khi đến biên giới bang, tôi rẽ vào bãi đậu xe của nhà nghỉ Best Western, đậu xe giữa hai xe tải ở hàng cuối. Một chiếc là Dodge Ram màu xanh có gắn moóc. Dùng một tuốc nơ vít trong hộp dụng cụ, tôi tháo biển số Texas của xe Ram, thay cho biển số chiếc xe nâu đỏ của chúng tôi. Xong tôi lái lên đường I-40 nhằm thẳng hướng Tây về phía ranh giới Tennessee, nó nằm đâu đó trong rặng Appalachian phía trước.
Chẳng bao lâu Rachel đã lại ngáy êm, đầu cô vẫn gối trên đùi tôi. Tôi vặn radio chọn kênh đang phát nhạc của David Gray, mắt khẽ nhắm hờ chỉ để đủ quan sát hai mép đường. Chúng tôi đang chạy về quá khứ của tôi, về phía những cánh rừng tuổi thơ, một thế giới đầy ắp sự tương phản kỳ lạ và ký ức không phai mờ. Phòng Thí nghiệm Quốc gia Oak Ridge là một trong những trung tâm công nghệ cao nhất của cả nước, thế mà lại nép mình giữa rừng già rậm rạp. Ở đó, tôi được đi học với con cái những ông bà thông minh sáng láng từ Chicago và New York đến và con cái những người đàn ông đàn bà gầy guộc hốc hác chưa từng rời khỏi hạt từ lúc sinh ra. Một số nhà khoa học thấy chỗ quê mùa này buồn chán, nói thẳng ra là khó chịu, nhưng đối với gia đình tôi cảnh núi rừng bao quanh Oak Ridge là một thiên đường.
Xung quanh Oak Ridge có nhiều chỗ kín đáo có thể ẩn náu, nhưng có một nơi tuyệt nhất. Năm ngoái tôi đã nghe một người bạn từ thời thơ ấu kể rằng vì lý do kinh phí hạn chế, chính phủ đã đóng cửa Công viên Quốc gia Frozen Head. Nơi đó tôi với anh tôi đã cắm trại không biết bao nhiêu lần. Bây giờ, công viên vùng núi này đã trở nên hoang phế nhưng vài người đi bộ cuồng nhiệt vẫn vụng trộm đến đây thưởng thức kỳ nghỉ của mình mà không làm phiền đến ai.
Chúng tôi băng qua ranh giới Tennessee ở cực Nam Rừng Quốc gia Pisgah. Chúng tôi đi xuyên rừng già và đến nửa đêm đã qua Knoxville. Tôi chạy tiếp về phía Tây trên đường 62 và không đầy ba mươi phút sau, chúng tôi đã chạy xe qua Oak Ridge, “thành phố bí mật” của Mỹ trong Thế Chiến II. Ngày nay nó nổi tiếng trên thế giới về các căn cứ hạt nhân, nhưng trong Thế Chiến II, nó không có tên trên bản đồ. Trong khoảng thời gian từ 1945 đến 1975 - những năm tôi rời đến Alabama - Oak Ridge đã phát triển thành một nơi kiểu thành phố nhỏ bình thường của Mỹ. Nhưng không bao giờ hoàn toàn như vậy. Luôn có một cảm giác chung về sứ mệnh của Oak Ridge, và chứng cớ về giá trị của thành phố này tuy không nhìn thấy được nhưng vẫn luôn tồn tại. Chúng tôi, những người đã từng sinh sống ở đó biết rõ rằng nếu có xảy ra chiến tranh hạt nhân thì chỉ vài phút là tất cả chúng tôi sẽ thành tro bụi. Ngay trong đêm tối, tôi cũng có thể thấy thành phố đã phát triển hơn nhiều kể từ ngày tôi xa nó. Có thêm nhiều nhà hàng nhượng quyền nằm dọc hai bên đường, thêm nhiều chuỗi cửa hiệu, nhưng trái tim thành phố vẫn là phòng thí nghiệm và những lò phản ứng uranium thời chiến, nó thu hút trí tò mò của du khách muốn nhìn những vũ khí đã giúp người Mỹ chiến thắng trong cuộc chiến với Nhật Bản.
Rời khỏi Oak Ridge trên đường cao tốc 62, xe chúng tôi là phương tiện duy nhất đang chạy trên đường. Chúng tôi đi bọc theo chân núi Big Brushy, phía bên kia là nhà tù bang. Ba ranh giới hạt gặp nhau ở chỗ hoang vắng này, một thế giới chìm trong màn sương, nơi lớp hậu duệ của những người thợ mỏ, người nấu rượu lậu sinh sống. Họ cứ sống dai dẳng trong cái thung lũng mờ tối này và dọc theo các hầm mỏ bỏ hoang vẫn còn lại như những vết sẹo trong vùng núi.
Tôi vòng lên hướng Bắc theo đường 116, một con đường nhỏ băng qua làng Petros, rồi qua nhà tù, một khu đất rào kín trông rõ ngán ngẩm được chiếu sáng chói gắt bằng đèn thủy ngân cao áp và có hàng rào dây thép gai bao quanh. Phía Bắc nhà tù, con đường uốn gập lại giống như một con rắn bị thương. Tôi rẽ trái theo một đường mòn không có số trên bản đồ, nhưng tôi nhớ rất rõ. Chẳng mấy chốc tôi đã đến trước cổng công viên quốc gia cũ bị bỏ hoang, nay có lẽ đã bị phong tỏa.
Cách cổng chừng chục mét, tôi chạy chậm lại và ngó tìm lối vào giữa những hàng cây. Khi nhìn thấy một lối đi, tôi đạp phanh, rẽ khỏi đường và mười giây sau chúng tôi đã biến vào trong đó. Tôi tiếp tục chạy cho đến khi cây cối trở nên quá rậm rạp và đất dốc không thể đi tiếp được nữa. Tôi dừng xe, tắt máy.
Rahel nằm không nhúc nhích. Tôi nhoài người lấy mấy túi ngủ ở sau ghế. Khi tôi giở chúng ra, cô giật mình tỉnh dậy, nhỏm phắt lên khỏi đùi tôi, căng mắt nhìn vào bóng tối.
“Anh định làm gì vậy?”
“Bình tĩnh nào,” tôi nói. “Cô ổn cả. Chúng ta đến rồi.”
“Đây là đâu?” Cô cố nhìn ra ngoài cửa sổ, nhưng dưới những lùm cây không có chút ánh sáng nào. Chúng tôi như lọt vào một cái hang.
“Chúng ta đang ở bên ngoài Oak Ridge, ở một nơi gọi là Frozen Head. Đó là một công viên quốc gia cũ bị bỏ hoang.”
“Frozen Head?”
“Cô ngủ say cả mấy tiếng đồng hồ.”
Cô lắc đầu. “Tôi có ngủ được trên xe đâu.”
“Ừm, vậy cứ nhắm mắt để đấy đi. Tôi sẽ đánh thức cô trước khi trời sáng.”
Cô chớp mắt như thể vừa tỉnh khỏi cơn mê. Rồi cô đưa tay lên che miệng và nhăn mặt. “Anh có mua bàn chải đánh răng không?”
“Có. Cô có thể đánh răng khi trời sáng.”
“Tôi muốn đi tiểu.”
“Xung quanh toàn là rừng rậm đấy.”
“Liệu ra ngoài có an toàn không?”
Tôi định bảo cô phải cẩn thận coi chừng rắn đuôi chuông, nhưng có lẽ cô sẽ không ra nữa nếu tôi nói thế. “Đây là nơi an toàn nhất trong hai mươi bốn giờ qua.”
Cô xuống xe đi ra khỏi vùng sáng nhưng không đóng cửa xe. Ánh sáng rọi vào chúng tôi như một chiếc đèn lồng trong rừng. Cô đi khá lâu, tôi dần thấy lo lắng. Mưa bắt đầu rơi rào rào trên kính chắn gió, và tôi nghe tiếng cô hét lên. Cô leo vội lên xe khi chưa kịp kéo khóa quần, đóng sầm cửa lại.
“Trời mưa to quá,” cô nói, tay kéo khóa quần.
“Mưa là tốt cho chúng ta. Nó che lấp tiếng động khi ta đi trong rừng.”
Cô kéo túi ngủ qua ngực, rùng mình. “Tôi không muốn làm anh thấy phiền, nhưng thế này tệ quá. Chẳng lẽ chúng ta không nghỉ tạm trong một nhà nghỉ rẻ tiền nào đó được sao?”
“Lúc này không một ai trên thế giới biết chúng ta đang ở đâu. Vì thế không ai có thể tìm ra chúng ta. Đấy là điều chúng ta muốn. Ngủ đi.”
Cô gật đầu và ngồi tựa lưng vào cửa.
Tôi ngồi nghe bản giao hưởng của mưa và tiếng động cơ lách tách, nhớ lại những buổi sáng trước khi trời rạng, tôi thức cùng cha và anh chờ bắn vịt trời hay hươu nai. Tôi mệt bã người nhưng biết mình phải tỉnh táo trước lúc mặt trời lên. Một vùng nguyên sơ nào đó trong não tôi thiếp ngủ trong các thành phố nay đã được đánh thức nơi rừng hoang, đang thì thầm với tôi nhịp điệu của rừng với độ chính xác không giảm sút. Nhịp điệu đó nói với tôi khi nào trời sắp sáng, khi nào sắp mưa, khi nào trò chơi tiếp tục. Tôi kéo túi ngủ lên ngang cằm.
“Chúc ngủ ngon,” tôi nói với Rachel.
Chỉ có tiếng thở đều đều của cô đáp lại.
Tôi bừng tỉnh khi bóng xanh mờ đầu tiên lọt qua tán cây. Tôi chớp mắt nhiều lần, rồi quan sát nhanh cảnh vật mà không quay đầu. Không thấy gì lạ, tôi nhẹ nhàng lay gọi Rachel. Cô lại giật mình ngồi dựng lên, nhưng không đến nỗi quá hoảng hốt như hồi đêm.
“Giờ ta đi,” tôi nói.
“OK,” cô lầm bầm trong miệng, nhưng trông cô như sẵn sàng ngủ tiếp.
Tôi bước ra ngoài để trút nhẹ bàng quang, rồi lấy các thứ ở sau ghế ngồi ra. Tôi bỏ phần lớn vào ba lô của mình, chỉ đưa cho Rachel túi ngủ, vài hộp thức ăn và mấy bình châm xăng. Khi cô ra ngoài, tôi đưa thêm cho cô bộ áo liền quần ngụy trang, tất dày và ủng.
Mặt cô nhăn nhó, nhưng cô cũng lấy quần áo và đi ra sau xe. Khi cô đang thay quần áo, tôi đặt cung và túi tên vào ba lô của mình. Xong tôi mặc bộ áo liền quần và đi ủng vào. Khi tôi khoác ba lô lên vai, rừng như đột nhiên bừng sáng, tôi biết mặt trời đã ngự trên đỉnh núi Windrock ở hướng Đông.
Rachel đi vòng quanh xe trông như những nữ quân nhân Israel mà tôi từng nhìn thấy trong các bức ảnh. Cô khoác ba lô lên vai không đến nỗi lúng túng lắm, và cô không than phiền về sức nặng của nó.
“Các bạn cô mà trông thấy cô bây giờ nhỉ,” tôi nói, cài chiếc điện đài lên thắt lưng cô.
“Chắc bọn họ phải cười bò ra.”
Tôi nhét đống đồ chúng tôi vừa thay ra vào túi của cô. “Nhìn kỹ mặt đất. Bước theo bước tôi, và chú ý đừng để cành cây móc vào quần áo. Nếu bị lạc nhau, hãy dùng điện đàm, nhưng khẽ thôi.”
“OK.”
“Đừng nói nếu không có gì khẩn cấp. Nếu tôi giơ tay lên, hãy dừng lại. Nắm lấy thắt lưng tôi nếu tôi đi quá nhanh. Chúng ta không cần phải vội lắm. Ở đây cô sẽ gặp thú rừng đấy. Bình tĩnh tránh ra khi gặp rắn, không cần để ý những con khác.”
Cô gật đầu. “Chính xác thì chúng ta đi đâu?”
“Trong núi có nhiều hang động. Khách đi bộ đường dài có thể biết một số hang, nhưng có một cái hầu như chưa ai biết. Cha tôi và tôi đã tìm ra nó khi tôi còn nhỏ. Đấy là chỗ chúng ta cần.”
Cô mỉm cười. “Tôi sẵn sàng như sắp sửa đến đích ấy.”
Chúng tôi đi theo vết bánh xe đến khi ra tới đường, sau đó lấy ít bụi cây lấp lối đi. Tôi băng qua đường, nhìn xem có nhánh nào của sông Mới, một lạch nhỏ từ trên núi xuyên qua hẻm đá sâu khoảng mười lăm mét. Hẻm núi này có thể là đường lên núi. Đội phục vụ trong công viên quốc gia đã làm một con đường nhỏ song song với khe suối, nhưng tôi không dám liều để nhỡ đụng phải một khách đi bộ nào đó. Tôi còn sợ gặp phải dân địa phương trồng cần sa trong khu công viên hoang kín đáo này. Vào những lúc mất mùa, đây là một cám dỗ lớn với hậu duệ của dân nấu rượu lậu, bọn họ coi giữ chặt chẽ chỗ này đề phòng những kẻ xâm nhập. Họ gài bẫy trên ruộng của mình, và bắn trước không cần hỏi.
Tôi nhanh chóng tìm thấy khe suối, và khi ánh ngày rọi chiếu trong rừng, chúng tôi đã lội qua khe suối và leo lên hẻm núi. Rễ cây xương xẩu bám chắc lên vách đá như những bàn tay bị viêm khớp. Những tảng đá to như xế hộp nằm dọc theo khe núi. Con suối có chỗ thì nông và rộng, chỗ khác lại thắt hẹp lại thành những luồng chảy réo ùng ục. Tôi thấy dấu chân của hươu nai, và có lần tôi thấy gì như dấu chân gấu. Điều đó làm tôi hơi lo lắng về cái hang. Khi chúng tôi đi ngang qua các bụi rậm, thỏ, tatu phóng ra rào rào chạy trốn. Cứ vài phút tôi lại quay nhìn Rachel, hình như cô cố theo kịp. Có vài lần cô bị trượt chân trên đá ướt, nhưng giẫm chân lên những tảng đá trơn trượt để leo lên dốc đâu phải là chuyện dễ dàng với người mới bắt đầu.
Trong khi bước qua một cành cây ngập nước, tôi ngửi thấy trong gió có mùi khói. Tôi dừng bước bên đường mòn, hy vọng đó là khói từ lửa trại của khách đi bộ. Nhưng không phải. Đó là mùi thuốc lá thơm Virginia. Tôi giơ tay. Nhưng không cần thiết. Rachel đã dừng bước ngay khi trông thấy tôi đứng lại.
Không quay đầu, tôi lia mắt quan sát đá và cây phía trước. Không có gì ngoài tiếng suối róc rách chảy và những giọt mưa rớt xuống từ đám cành lá trên đầu. Tôi ngước nhìn kỹ các cành thấp của vòm rừng. Có thể là chòi của kẻ săn trộm hươu. Nhưng những thợ săn chuyên nghiệp thừa biết rằng hút thuốc lá có thể làm mất cả một mẻ săn, có khi hỏng cả một mùa săn. Tôi không thấy gì trên cây.
Tôi nhẹ nhàng quay đầu quan sát mép khe núi. Từ phải, sang trái. Không có gì. Tôi lại hít không khí. Mùi thuốc lá đã hết.
Rachel kéo mạnh thắt lưng tôi. “Chuyện gì thế?” cô thì thào.
Tôi quay lại thấy nét sợ hãi trên mặt cô. Im lặng, tôi mấp máy môi. Đứng yên.
Cô gật đầu.
Lại có mùi thuốc lá thơm thoảng qua tôi, mạnh hơn lúc trước. Tôi quay đầu lại thật chậm và bất giác ngẩng nhìn lên. Cách chừng bốn mươi mét, một người đàn ông vận bộ đồ bằng vải nylon đen đứng tựa lưng vào thành hẻm núi và búng đầu mẩu thuốc lá xuống khe suối. Tim tôi nhảy lên, nhưng tôi đứng bất động. Mẩu thuốc bay vọt lên không thành một vệt trắng trên nền lá xanh, rơi xuống nước và trôi về phía chúng tôi.
Người đàn ông đưa mắt nhìn theo tàn thuốc. Tôi chắc chúng tôi sắp bị phát hiện, nhưng gã bỗng quay đi mà lấy cái gì xuống khỏi vai. Một khẩu súng trường đen. Một khẩu M16. Gã tựa súng vào thân cây, mở khóa quần và bắt đầu tiểu xuống vách đá nhỏ. Gã nghịch như một thằng trẻ con, cố hướng luồng nước đái đến khe suối nhưng không tới. Thanh niên chắc đã làm ngon. Tay này ngót bốn mươi, và gã vận quân phục.
Tôi cầu cho Rachel không hoảng sợ. Có lẽ lúc đầu cô chưa nhìn thấy tay súng này, nhưng không thể không nhìn thấy cái “cầu vồng” vàng ánh trong nắng sớm. Tay kia đã ngừng đái bằng cách vung vẩy tay, lắc mình, kéo khóa quần rồi cầm khẩu M16 lên. Khi khoác súng lên vai, gã nhìn xuống khe suối, ngay vào chỗ chúng tôi.
Tôi nín thở, chờ đợi giây phút dán chặt mắt vào nhau.
Tay súng nhìn chăm chú phía trên đầu chúng tôi, rồi quay đi. Gã nheo mắt, đoạn nhìn ra xa xa xuống suối lần nữa. Chính là nhờ bộ áo liền quần và khăn trùm đầu ngụy trang. Gã không phân biệt được chúng tôi với cảnh nền của khe suối và cây cối. Tôi nhìn thấy gã nghẹo đầu sang phải một cách lạ lùng, tôi tưởng gã bị chứng co giật thần kinh, nhưng liền sau đó tôi nhận ra gã đang nói vào một microphone gắn trên ve áo. Tôi nghe tiếng trả lời eo éo sắc như kim loại, nhưng không rõ được lời nào cả. Sau đó gã quay bước vào rừng.
Tê điếng người vì hoài nghi, tôi quay lại Rachel thì thấy cô đang nhìn tôi bối rối.
“Có chuyện gì đấy?” cô thì thầm.
“Cô không nhìn thấy à?”
“Cái gì?”
“Thằng đàn ông đái lên vách đá!”
Mắt cô mở to.
“Hắn có một khẩu súng.”
“Tôi không nhìn thấy gì cả. Tôi chỉ nhìn anh. Tôi tưởng anh nhìn thấy rắn hay gì đó.”
“Chúng ta quay lại xe mau.”
Mặt cô nhợt nhạt. “Thế còn cái hang?”
“Hỏng rồi. Chúng đang chờ ta ở trên đó.”
“Chúng không thể.”
“Chúng có. Thằng kia mang súng M16 và mặc quân phục. Những người săn hươu quanh đây nhìn khác.”
“Nhưng chúng ta đã gần đến rồi cơ mà?”
Hơi nóng gai người trùm lên da tôi. “Cô lo cái gì?”
“Tôi có lo đâu. Tôi chỉ muốn nói ở trong hang an toàn hơn.”
“Không đâu.”
Một ý nghĩ âm ỉ trong khoảng tối của trí óc tôi. Bọn chúng biết nơi chúng tôi đang đến. Trước khi ý nghĩ đi xa hơn, tôi thấy mình lắng nghe một cách tuyệt đối tập trung. Tôi không rõ nghe thấy cái gì, nhưng chắc là có gì đó. Một chuyển động không hợp với những tiếng động thông thường trong rừng vắng. Tôi rủa thầm. Mưa rơi lúc trước làm giảm nhẹ tiếng bước chân của chúng tôi thì nay thành ra che cho kẻ thù của chúng tôi. Hay chúng chỉ là kẻ thù của tôi?
Một ý lóe lên trong óc tôi, tiếng eo éo lại phá vỡ im lặng, và tôi biết có những tay súng nữa cách chúng tôi không quá mười lăm mét. Rón rén sau lưng Rachel, tôi đưa một bàn tay bịt chặt miệng cô, vung cánh tay kia vòng quanh ngực cô, ghì sát cô vào người tôi bằng tất cả sức lực của mình. Cô muốn kêu lên, nhưng không có âm thanh nào thoát ra khỏi miệng.
Tôi đứng bất động trong khe suối, nước chảy táp vào chân. Rachel vùng vẫy cố thoát ra. Chiếc ba lô sau lưng làm tôi khó giữ được cô. Tôi sợ cô có thể cắn tay tôi, nhưng cô không làm thế. Chỉ riêng điều đó khiến tôi càng nghi ngờ chính cô là người đã báo cho NSA biết phải tìm chúng tôi ở đâu.
“Tôi sẽ bỏ tay khỏi miệng cô,” tôi thì thầm. “Nếu cô kêu lên, tôi sẽ cắt cổ họng cô.”