Dấu chân của chúa - Chương 12
Dấu chân của chúa
Chương 12
Ngày đăng 28-12-2015
Tổng cộng 46 hồi
Đánh giá 9.2/10 với 42269 lượt xem
Chiếc Saab trắng của Rachel đậu trước nhà tôi. Bản thân Rachel đang ngồi trên bậc tam cấp, tay chống cằm như các cô nữ sinh chờ giờ lên lớp. Thay vì váy và áo lụa quen thuộc, hôm nay cô mặc quần jean xanh và sơ mi Oxford bằng cotton trắng. Tôi nhấn còi. Cô ngẩng lên, không mỉm cười. Tôi vẫy tay chào, lái xe vào ga ra rồi bước qua căn nhà, ra mở cửa trước.
“Xin lỗi để cô phải chờ,” tôi liếc một vòng xem có chiếc xe lạ nào trên phố không.
Mắt cô đỏ mọng vì khóc. Cô bước vào phòng khách nhưng không ngồi mà đi vòng quanh chỗ bàn ghế thưa thớt trong phòng, vẫn chưa lấy lại được bình tĩnh.
“Kể tôi nghe chuyện gì đã xảy ra đi,” tôi nói.
Cô tạm dừng đủ lâu để nhìn tôi chằm chằm rồi lại bước tiếp. “Lúc đó tôi đang ở bệnh viện khám cho một bệnh nhân định tự tử cách đây hai hôm.”
“Và?”
“Tôi quyết định tạt qua văn phòng lấy vài tấm biểu đồ. Khi đến đó tôi nhận thấy có kẻ đã đột nhập. Nghĩa là cửa vẫn khóa, nhưng tôi biết thế, anh hiểu không?”
“Cô có nói rằng căn phòng bị lục tung lên.”
Cô nhìn lảng đi. “Không hẳn thế. Nhưng rất nhiều đồ để không đúng chỗ. Tôi biết điều này, vì tôi thích sắp xếp mọi thứ theo một cách nhất định. Sách xếp theo kích cỡ từ nhỏ đến lớn, giấy tờ chất đống... mà thôi, đừng quan tâm.”
“Cô bị ám ảnh cưỡng chế rồi.”
Đôi mắt sẫm màu của cô lóe lên. “Có những chuyện còn tệ hơn chứng ám ảnh cưỡng chế nhiều.”
“Đồng ý. Cô bảo hồ sơ bệnh án của tôi bị lấy mất?”
“Phải.”
“Có hồ sơ của bệnh nhân nào khác bị mất không?”
“Không.”
“Thế thì đúng rồi. Điều tôi không hiểu được là chúng lấy trộm bệnh án của tôi làm gì. Tại sao không copy thôi? Tôi tin chắc chúng đã đọc từ trước. Có khi chúng còn đọc hằng tuần ấy chứ.”
Rachel dừng bước nhìn tôi vẻ không tin. “Làm sao họ làm được điều đó?”
“Bằng cách cho người lẻn vào phòng làm việc của cô. Có thể là buổi tối những ngày tôi đến khám.”
“Tại sao trước đây tôi không nhận thấy điều gì?”
“Có thể lần này chúng quá vội.”
“Tại sao?”
“Chúng sợ.”
“Sợ gì?”
“Sợ tôi. Những gì tôi đã làm. Những gì tôi có thể sẽ làm.”
Cô ngồi trên mép sofa của tôi như thể đang định thần lại. “Tôi cần hiểu rõ chuyện này, David. Họ là ai? NSA ư?”
“Đúng và sai. Chúng là những người làm công tác an ninh cho Dự án Trinity, do NSA cung cấp tài chính.”
“Và đó là những người mà anh bảo đã giết Andrew Fielding?”
“Đúng.”
Cô nhắm mắt. “Tôi đã nhờ một người bạn ở trung tâm y tế xét nghiệm hộ gói bột trắng anh đưa cho tôi. Nó không chứa mầm bệnh than hay bất cứ mầm bệnh hoặc độc chất nào ta biết.” Cô mở mắt ra nhìn vào mắt tôi. “Đó là cát, David ạ. Giống thạch cao. Cát trắng. Chẳng nguy hiểm cho ai cả.”
Đầu óc tôi bắt đầu quay cuồng với những ý nghĩa có thể có của chuyện này. Những con chíp siêu nhỏ làm bằng silicon, một loại cát. Hay thạch cao là cơ sở của một chất bán dẫn mới mà Godin tìm ra? Có thể Fielding đã cố nói cho tôi biết một điều tương tự mà không tiện nói trắng ra...
“Anh đã thử cố liên lạc lại với tổng thống chưa?” Rachel hỏi.
Tôi há hốc mồm ngạc nhiên.
“Cái gì?”
“Tôi quên kiểm tra hộp thư thoại. Xin lỗi.”
Tôi vào trong bếp. Đèn đỏ của điện thoại báo có tin nhắn mới. Tôi nhấn nút, một giọng vùng New England lạo xạo vang lên trong cái loa nhỏ xíu:
“Bác sĩ Tennant hả? Ewan McCaskell, chánh văn phòng tổng thống đây. Tôi nhớ là anh đã đến thăm văn phòng vài năm trước. Tôi vừa nhận được tin nhắn của anh. Chắc anh hiểu chúng tôi ở đây đang quá bận. Tôi không thể quấy rầy tổng thống cho đến khi biết rõ chuyện này là thế nào, nhưng tôi muốn nói chuyện với anh ngay khi có thể. Anh hãy giữ nguyên số máy này, tôi sẽ gọi lại ngay khi thời gian cho phép.”
Tôi gần như nhẹ nhõm cả người. Tôi chống tay lên quầy cho vững. Thiết bị nhận dạng người gọi đến cho thấy cuộc gọi của McCaskell đã đến từ hai mươi phút trước.
“Ai đấy?” Rachel hỏi.
Tôi mở lại cho cô nghe lời nhắn.
“Tôi phải thừa nhận rằng,” cô nói, “giọng nói nghe như của McCaskell.”
“Giống giọng McCaskell? Thì đúng là ông ta. Vậy ra cô vẫn không hiểu tí gì về những chuyện cô thấy đêm qua?”
Cô kéo một chiếc ghế từ bàn bếp ra rồi ngồi xuống đối diện tôi. “Anh nghe tôi nói này, David. Anh biết tại sao tôi đến đây không? Tại sao đêm qua tôi lại giúp anh?”
“Nói đi.”
“Cuốn sách của anh.”
“Sách của tôi?”
“Phải. Hằng ngày ở bệnh viện tôi thấy những điều mà người ta không nói với tôi khi ở trường y. Các ca đã rơi vào kẽ hở giữa thực tế và luật pháp. Những vấn đề hóc búa mà chính phủ không có can đảm để đối diện. Tôi cố sức xoay xở tình hình... có thể là than phiền với các bác sĩ khác, nhưng chỉ có bấy nhiêu thôi. Anh đã viết ra để thế giới đọc nó, mà không thèm đếm xỉa chuyện gì sẽ xảy đến với mình. Nạo phá thai. Chăm sóc cuối đời và chăm sóc thai nhi. Chết êm ái. Trời ơi, anh viết về việc giúp anh trai của anh chết.”
Tôi nhắm mắt lại và thấy hình ảnh của anh trai mình, không thể cử động gì ngoài đôi hàng mi vì sự tàn phá của chứng teo cơ, rồi đến ngày ngay cả đôi hàng mi cũng không còn động đậy được nữa. Chúng tôi đã đi đến một thỏa thuận. Đến thời điểm đó, tôi phải giúp anh chấm dứt những gì còn lại của cuộc đời anh.
“Tôi suýt nữa đã xóa chuyện này khỏi cuốn sách,” tôi nói.
Cô nắm cánh tay tôi. “Nhưng anh đã không xóa. Anh đã liều mạng, và anh đã giúp cho vô khối người bằng cách cứ để thế không xóa. Những người mà anh không biết. Nhưng họ biết anh. Tôi biết anh. Và bây giờ thì anh ốm. Anh đã cần trợ giúp hàng tháng trời, và những liệu pháp thông thường đã bó tay. Tôi không thể nào vượt qua bức tường mà anh đã dựng lên.” Bàn tay cô nắm chặt cánh tay tôi, cô mỉm cười khích lệ. “Tôi tin rằng anh đang bị cuốn vào một nhiệm vụ rất quan trọng, đúng không? Nhưng hãy trả lời tôi điều này. Nếu máy tính Trinity đúng như những gì anh nói, thì, sao lại là anh? Anh biết không? Anh đã viết một quyển sách tuyệt vời. Tổng thống quen anh trai anh. Nhưng liệu điều đó có làm cho anh đủ trình độ đánh giá môn khoa học mà anh đã kể với tôi không?”
Cô nói đúng. Còn nhiều điều phải nói. Tôi đã giữ kín quá khứ của mình quá lâu để đến bây giờ muốn nói ra cần phải có một ý chí mãnh liệt.
“Cha tôi là một nhà vật lý hạt nhân,” tôi nhẹ nhàng nói. “Trong chiến tranh ông làm việc ở Los Alamos. Ông là nhà vật lý trẻ nhất làm việc trong Dự án Manhattan.”
Đôi mắt đen của cô lóe lên. “Còn gì nữa?”
“Tôi đã học vật lý lý thuyết ở Đại học Công nghệ Massachusette.”
“Trời đất ơi! Đúng là tôi chưa biết gì về anh, phải không?”
Tôi chạm vai cô. “Cô biết chứ. Nghe này, cha tôi là thành viên của nhóm người đầu tiên phản đối việc sử dụng bom. Nhóm gồm những người như Leo Szilard, Eugene Wigner. Người Đức đã đầu hàng, còn người Nhật thì không có nguồn lực để chế bom nguyên tử. Nhóm của cha tôi muốn chơi quả bom ấy với quân đội Nhật, chứ không phải dội xuống đầu dân thường. Sự phản đối ấy bị phớt lờ, và Hiroshima trở thành lịch sử.
“Nhưng ngày nay chúng ta sống trong một thế giới khác. Ngay khi tổng thống nhận ra những điều mờ ám trong Trinity - chúng ta đang nói về việc giải phóng trí thông minh con người ra khỏi thân xác, lạy trời - ông biết rằng mình sẽ bị công kích chính trị nếu công chúng biết ông cứ tiến hành mọi việc mà không quan tâm gì đến các vấn đề luân lý, đạo đức. Hãy nhìn cơn giận dữ của công chúng xung quanh những nghiên cứu về nhân bản vô tính và phôi thai thì biết. Vì vậy tổng thống yêu cầu phải giám sát khía cạnh đạo đức. Ông ấy biết cuốn sách của tôi, ông ấy biết công chúng sẽ tin rằng tôi nói sự thật, và ông ấy tin tôi vì ông ấy biết anh tôi. Hơn nữa, sự khách quan đầy lương tâm của tôi còn có tính huyết thống, từ cha tôi với Dự án Manhattan. Vậy thử hỏi còn ai hơn tôi?”
Rachel lắc đầu. “Vậy tại sao anh lại trở thành bác sĩ mà không phải là nhà vật lý?”
Cô này không sao thoát khỏi cái bóng của một bác sĩ tâm thần. Hay có lẽ chỉ đơn thuần vì cô là phụ nữ. “Sau Hiroshima, cha tôi phải chịu một cuộc sống tồi tệ. Edward Teller tiếp tục dấn lên sáng chế bom khinh khí. Oppenheimer phản đối. Cha tôi cũng vậy. Ông đòi chuyển ngành. Tướng Grover không muốn nhả ông ra khỏi ngành vũ khí, nhưng họ đồng ý cho ông một công việc mang tính kỹ thuật nhiều hơn, ít dính dáng đến những đầu đạn hạt nhân hơn. Họ chuyển ông về một phòng thí nghiệm quốc gia ở Oak Ridge, Tennessee.”
“Thế sao cha anh không bỏ việc luôn đi?”
“Cuối cùng ông ấy đã làm thế. Nhưng hồi đó là Chiến tranh Lạnh. Khi ấy có đủ loại áp lực. Oppenheimer bị ngược đãi nhiều năm vì phản đối bom khinh khí. Cha tôi gặp mẹ tôi cũng chính ở Oak Ridge. Ở đó đời sống trở nên dễ chịu hơn. Rồi ông bà sinh ra anh tôi. Tôi sinh sau khá lâu. Một tai nạn, thật ra là thế.” Tôi mỉm cười khi nhớ lại cha mẹ tôi bộc bạch điều đó với tôi. “Tôi lớn lên ở Oak Ridge, nhưng khi tôi đến tuổi thiếu niên thì cha tôi đã bỏ vật lý hạt nhân và đưa chúng tôi về Huntsville bang Alabama, nhờ đó ông có thể làm việc cho chương trình không gian.”
“Tôi vẫn chưa thấy mối liên hệ với y học.”
“Mẹ tôi là bác sĩ nhi khoa ở Oak Ridge. Bà đã làm được nhiều điều tốt. Chẳng cần phải là thiên tài mới nhận ra công việc mang lại cho mẹ tôi nhiều hạnh phúc hơn cha tôi. Điều này đã ảnh hưởng đến tôi.”
Tôi nhìn xuống điện thoại, chỉ mong nó lại đổ chuông lần nữa. “Đêm qua, tôi mới chỉ nói với cô một phần sự thật. Khi tổng thống trao cho tôi chức vụ này, tôi có cảm giác kỳ quặc rằng đây là quả báo. Tôi được trao một cơ hội mà cha tôi chưa bao giờ có ở Los Alamos. Cơ hội để thực thi kiểm soát đối với một công trình khổng lồ có thể thay đổi vĩnh viễn cả cái thế giới này. Xem sự thay đổi đó là tốt hay xấu, thiện hay ác. Tôi cảm nhận điều đó vào cái ngày tôi bước chân đến Phòng Bầu dục, và chính điều đó đặt tôi vào đây.”
Rachel hít sâu rồi thở ra thật chậm. “Tất cả là thật đấy chứ? Tôi muốn nói đến Trinity.”
“Thật. Và tôi phát cuồng lên vì vui sướng khi McCaskell gọi lại cho tôi. Chúng ta cần tổng thống vô cùng.”
Tôi đứng dậy, nửa muốn mở lại tin nhắn của McCaskell, nhưng cơn mệt mỏi đã ập xuống. Tôi hy vọng chỉ là do kiệt sức, nhưng rồi những tiếng o o quen thuộc cứ rít lên trong răng hàm. Nhớ ra không còn viên amphetamine nào cả, tôi lấy một lon Mountain Dew từ trong tủ lạnh, bật nắp và uống một hơi dài để có chút caffein.
“David?” Rachel nhìn tôi lạ lùng. “Anh có sao không? Trông anh run rẩy quá.”
“Tôi ngất mất,” tôi vừa nói vừa uống thêm một ngụm soda nữa.
“Ngất?” Đôi mắt cô mở to. “Chứng ngủ rũ?”
Cô chưa bao giờ chứng kiến một trong những cơn bệnh của tôi. Khi tôi gật đầu, như có một màn đen lướt qua mắt tôi. Nó để lại một cảm giác đe dọa mơ hồ, tựa chừng vừa có ai trong phòng với chúng tôi, ngay đó nhưng tôi không nhìn thấy. “Tôi đang bỏ sót một việc,” tôi nói to ý nghĩ của mình lên.
“Anh đang nói về chuyện gì?”
Hình ảnh Geli Bauer vụt hiện trong trí tôi. “Chúng ta đang lâm nguy.”
Rachel trông có vẻ lo lắng cho tôi hơn là lo sợ mối hiểm nguy bên ngoài. “Nguy hiểm loại nào?”
“Có gì đó bất thường trong cách mọi chuyện diễn ra. Godin cho chúng tôi nghỉ... Hồ sơ của tôi bị lấy cắp khỏi phòng làm việc của cô... McCaskell gọi. Tôi đang bỏ sót điều gì đó, nhưng tôi quá mệt nên không thể nghĩ ra.”
“Tôi nghĩ McCaskell gọi đến là tin tốt chứ.”
“Đúng. Nhưng chỉ....” Dù đờ đẫn, tôi vẫn thấy cần súng trong tay đến phát điên. “Tôi nhờ cô một việc. Chờ tôi ở đây hai phút.”
“Cái gì?” Mắt cô tối sầm vì lo âu. “Anh định đi đâu?”
“Sang nhà bên cạnh.” Tôi hối hả ra cửa sau.
“David! Lỡ anh bị ngất thì sao?”
“Có ai gọi cũng đừng mở cửa!” tôi kêu lên. “Nhưng nếu điện thoại reo thì trả lời và bảo tôi sẽ về ngay.”
Tôi chạy ra ngoài và phóng qua hàng rào dày bao quanh sân sau những ngôi nhà trên phố. Tôi phóng vọt qua cả ba mảnh sân, rồi đi tắt qua bờ rào phía sau một kho chứa đồ nhà hàng xóm. Hai giờ đêm qua tôi đã lén ra khỏi nhà và giấu chiếc hộp của Fielding dưới chỗ này. Bên trong chiếc hộp của Fielding là những linh kiện điện tử, một phần cuốn băng ghi video của tôi, lá thư của Fielding và khẩu súng. Tôi quỳ xuống lấy lại chiếc hộp rồi trườn qua hàng rào và chạy thục mạng về sân nhà mình. Khi tôi về đến nơi, tôi có cảm giác như một thằng say rượu chạy trong một thành phố xa lạ.
Rachel đang đợi tôi ngay ở cửa sau. “Đó là món đồ đêm qua,” cô nói. “Tại sao anh lại cần nó?”
Tôi nghiêng chiếc hộp cho cô thấy khẩu súng.
Cô bước lùi lại. “David, anh làm tôi sợ.”
“Cô phải đi khỏi đây ngay. Cô sẽ ổn trong thời gian tôi kể chuyện của tôi với McCaskell.” Tôi để chiếc hộp xuống đất, giắt súng vào thắt lưng rồi dẫn cô ra phía trước nhà. “Hãy ở nơi công cộng đến hết ngày, như siêu thị chẳng hạn. Đừng về nhà trước khi tôi gọi cho cô.”
Cô trì người lại và không để tôi kéo đi ra cửa. Động tác quả quyết của cô khiến chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau. “Dừng lại ngay! Anh đang mất phương hướng và có thể tự bắn mình do bất cẩn.”
Tôi định trả lời, nhưng lời nói của tôi như bị hút xoáy vào khoảng tối của trí não. Mấy giây nữa là tôi bất tỉnh mất.
“Tôi sắp ngất.”
Cô nắm lấy cánh tay tôi và kéo lê tôi vào phòng, tìm chỗ đặt tôi nằm xuống. Tôi chỉ cửa phòng ngủ của khách. Cảm thấy tôi sắp ngã, cô kéo tôi qua cửa rồi buông tôi ngã sấp xuống nệm.
“Anh có thuốc men gì không?”
“Hết rồi.”
Tiếng bước chân cô xa dần. Tôi nghe tiếng cửa tủ sập mạnh, rồi tiếng Rachel tự nói với mình. Khi tiếng cô nghe gần hơn, tôi cố lật người lại. Bóng người che tối khung cửa.
“Cà phê đang pha,” Rachel nói. “Anh còn tỉnh không?”
“Hơi hơi.”
Cô nhìn tôi như người ta nhìn một con vật trong quá trình thí nghiệm. “Trong bếp của anh không có thức ăn gì cả, ngoài hũ muối khô như đá. Lần anh ra chợ gần đây nhất là bao giờ?”
Tôi không nhớ nổi. Mấy tuần gần đây là những giờ làm việc liên miên với Fielding về các thí nghiệm mà tôi hầu như chẳng hiểu mấy.
Rachel ngồi lên giường và đặt ngón tay lên động mạch cảnh của tôi. Đầu ngón tay cô mát rượi.
“Trước đây có lần tôi cũng thế này,” cô vừa nói vừa nhìn đồng hồ, môi cô khẽ mấp máy đếm mạch cho tôi. “Sau khi tôi mất đứa con trai. Ý tôi là không đi chợ. Không trả hóa đơn. Không tắm. Tôi đoán đàn ông cần nhiều thời gian hơn để thoát khỏi tình trạng đó. Cuối cùng, tôi cố làm mấy việc vặt để lập lại trật tự cuộc sống. Nhờ đó tôi mới không phát điên.”
Tôi thấy mình mỉm cười. Tôi thấy thích vì cô đã không để môn bệnh học tâm thần xen vào cách dùng những từ ngữ như điên. Tôi cũng thích cách cô đặt ngón tay lên cổ tôi. Tôi muốn nói với cô cái cảm giác được cô chạm vào. Nó nhắc tôi nhớ đến một người, nhưng tôi không rõ là ai...
“Sinh nhật anh là ngày nào?” cô hỏi.
Tôi không thể nhớ ra.
“David?”
Một làn sóng đen ập lên tôi, bao trùm tôi trong bóng tối.
Tôi đang bước đi trên vỉa hè một khu ngoại ô, ngắm nhìn những ngôi nhà dáng vẻ hoàn hảo xếp hàng ngay ngắn. Đó là phố Willow. Tôi sống ở Willow - dù sao thì cũng ngủ ở đó - nhưng nó chẳng giống con phố tôi sống hồi bé mấy. Ở phố Willow, tôi không biết rõ hàng xóm, và có những người tôi chẳng biết tí gì. NSA bảo tôi không được làm quen với ai, và hóa ra điều đó lại rất dễ. Ở phố Willow, không ai cố gắng để bắt quen. Ở Oak Ridge, nhà cửa nhỏ hơn, nhưng tôi có thể kể tên tất cả những người sống trong đó. Xóm nhỏ nhà tôi là một thế giới riêng, đầy những khuôn mặt mà tôi biết rõ như người thân trong gia đình. Ở phố Willow, trẻ con ở trong nhà nhiều hơn ra đường. Những ông bố không tự xén cỏ trong vườn, mà thuê người khác làm. Ở Oak Ridge, các ông bố tự chăm sóc bãi cỏ nhà mình như một thái ấp nho nhỏ, dành hàng giờ bàn bạc với nhau về các loại máy cắt cỏ và cách bón phân.
Tôi đi vòng qua góc phố và nhìn thấy ngôi nhà của mình. Ngôi nhà trắng với thảm cỏ xanh xén tỉa gọn gàng. Nhìn bề ngoài nó giống nhà, nhưng tôi không có cảm giác ấm cúng. Một con chó đen vô chủ giống Labrador nhảy vọt ra đường, một cảnh hiếm thấy ở đây. Một chiếc Lexus lăn bánh lại phía tôi, khi đi ngang qua tôi nó chạy chậm lại. Tôi vẫy tài xế, một phụ nữ dong dỏng cao, trông hống hách. Chị ta nhìn tôi chằm chằm như thể tôi là kẻ thóc mách nguy hiểm. Tôi bước qua đường đến trước cửa nhà mình.
Tôi thò tay vào túi lấy chìa khóa rồi rờ đến tay nắm cửa. Tôi đút cái gì đó vào lỗ khóa, nhưng... không phải chìa khóa của tôi. Nó bằng kim loại mỏng, giống như chiếc giũa. Tôi xoay xoay chìa trong ổ khóa. Hơi bị mắc một chút, nhưng sau đó khóa mở ra. Tôi mở cửa, lách vào bên trong và nhanh chóng đóng cửa lại sau lưng mình.
Tay tôi thọc sâu vào túi bên kia, chạm phải cái gì lành lạnh. Các ngón tay bao quanh gỗ, và bàn tay nắm chặt báng một khẩu súng, một khẩu tự động. Tôi không nhận ra loại vũ khí này. Tôi lấy từ túi bên ra một ống giảm thanh rồi chậm rãi vặn vào nòng súng. Nó vừa khít. Đứng ngoài hành lang, tôi nghe tiếng thủy tinh va vào nhau lách cách. Có ai đang ở trong bếp. Tôi thận trọng tiến lên một bước, chân dận thử ván sàn, rồi bắt đầu bước...
Tôi choàng tỉnh trong nỗi khiếp sợ và giật phắt khẩu súng từ bên hông ra. Một khẩu súng lục, không phải súng tự động. Và không có giảm thanh. Tôi muốn kêu to gọi Rachel, nhưng cố nén lại. Bằng một động tác, tôi lăn khỏi giường, đứng lên, rồi men ra cửa phòng ngủ.
Thoạt tiên tôi chỉ nghe thấy một giọng nữ khẽ ngân nga. Bản nhạc nghe như “California” của Joni Mitchell.
Tiếng sàn gỗ cứng trong hành lang kêu răng rắc.
Tôi khẽ hít hơi rồi nín thở.
Tiếng ván sàn lại răng rắc. Có kẻ nào đang qua cửa, từ phải sang trái. Tôi nhắm mắt chờ đợi. Một tiếng rắc nữa. Tôi đếm chậm đến mười. Rồi tôi dùng bàn tay không nhẹ nhàng xoay tay nắm cửa. Khi đã xoay đủ vòng, tôi giật mạnh cửa ra, lao vào phòng khách, nhắm khẩu 38 ly sang bên trái.
Một thanh niên tóc dài màu vàng hoe đứng cách tôi hai mét, hai cánh tay giơ qua cửa bếp. Tôi không nhìn thấy bàn tay, nhưng tôi biết chúng đang nâng một khẩu súng.
Tôi kéo cò.
Không có tiếng nổ hay tiếng cạch nào cả. Hóa ra tôi chưa gạt chốt an toàn, nên cò súng hai nấc chỉ đi được nửa chừng. Tôi nhả nó về, thằng tóc vàng quay người lại và đập vào mắt tôi là một khẩu tự động có ống giảm thanh, nòng súng đen ngòm không đáy. Đúng lúc này cò súng của tôi giật mạnh, và một tia lửa vàng cam phụt ra chiếu sáng rực hành lang. Tôi chớp chớp nhắm và khi mở mắt ra thì thằng tóc vàng đã biến mất.
Một giọng phụ nữ thét lên khiến màng nhĩ tôi ê buốt.
Tôi nhìn xuống. Thằng tóc vàng nằm trên sàn nhà, máu tuôn ra từ sọ hắn. Tôi bước lại đạp chân lên cổ tay đang giữ súng của hắn. Tiếng thét vẫn không dứt. Tôi liếc sang bên phải. Rachel đang đứng tựa lưng vào bồn rửa bát, mặt cô xám ngoét, mồm há hốc.
“Im ngay!” tôi quát. “Im!”
Mồm cô vẫn há, nhưng tiếng kêu tắt lịm.
Tôi giật khẩu tự động khỏi tay thằng tóc vàng, rồi kiểm tra mạch ở cánh tay hắn. Như sợi chỉ. Viên đạn xuyên qua sọ chỉ trên vành tai phải một chút. Đôi mắt xám của hắn trợn trừng, cả hai đồng tử bất động và dãn rộng. Tôi cúi xuống, thấy chất óc của hắn lộ ra. Hắn không thể sống quá năm phút.
Tôi cảm nhận hơn là nhìn thấy Rachel di chuyển. Nhìn lên, tôi thấy cô đang cầm ống điện thoại trong bếp; sắp sửa quay số.
“Bỏ xuống.”
“Tôi gọi cứu thương.”
“Hắn không còn cơ hội đâu.”
“Làm sao anh biết được!”
“Tất nhiên là tôi biết. Nếu cô không tin thì kiểm tra đi.” Tôi đứng thẳng lên. “Mà ngay cả khi hắn có cơ hội sống thì ta cũng không thể liều được.”
“Cái gì? Anh nói sao?”
“Cô nghĩ thằng này là ai? Một tên lưu manh đường phố chắc? Một thằng nghiện đột nhập vào nhà tôi giữa ban ngày? Cô nhìn hắn xem.”
Rachel liếc xuống chừng vài giây. “Tôi không biết hắn là ai. Anh biết hắn à?”
Khi tôi nhìn kỹ thằng nhãi đã ngỏm, tôi nhận ra mình biết hắn. Ít nhất đã có gặp từ trước. Không thường xuyên, nhưng có lần tôi đi qua hắn trong bãi đậu xe của Trinity, một gã trai gầy cao lêu nghêu, tóc hoe vàng, có dáng vóc của những người mà ta có thể gặp trên đường núi châu Âu. Giống như Geli Bauer, hắn có thể chất của một vận động viên leo núi, hoặc một tên lính xuất sắc.
“Tôi biết hắn. Hắn làm việc cho Geli Bauer.”
Rachel nheo mắt bối rối. “Ai vậy?”
“Cô ta là Trinity. Cô ta là Godin. Cô ta là NSA.” Tôi quẳng cả hai cây súng lên mặt quầy bếp. “Có kẻ đã ra lệnh cho cô ta lấy mạng tôi. Cả cô nữa, có vẻ thế.”
Có gì đó trong tôi vẫn cưỡng lại ý nghĩ cho rằng Peter Godin đã ra lệnh giết tôi. Nhưng ở Trinity không gì có thể thực hiện được nếu lão chưa thông qua.
“Chúng ta phải gọi cảnh sát,” Rachel nói. “Chúng ta sẽ không sao. Hắn định bắn tôi. Đó là tự vệ, là... giết người có lý do chính đáng, như họ thường nói.”
“Cảnh sát ư? Cô không thể gọi cảnh sát để điều tra NSA. Tôi đã nói với cô rồi.”
“Tại sao không? Hắn định giết tôi. Đó là hành vi phạm tội.”
Tôi gần như phì cười. “NSA là cơ quan tình báo lớn nhất và bí mật nhất ở Mỹ. Mọi việc nó làm là tuyệt mật. Phải có lệnh của tòa án thì cảnh sát mới có thể bước qua cổng vào căn cứ quân sự Meade.”
“Đây không phải căn cứ quân sự Meade.”
“Đối với NSA, nó là căn cứ quân sự Meade. Nghe này, chúng ta cứ tự lo cho tới khi tôi gọi được cho tổng thống. Cô hiểu không?”
Cô nhìn xuống vũng máu. “Có thể hắn thật sự là lưu manh đường phố.”
“Cô vẫn không hiểu à? Đó là lý do chúng lấy cắp bệnh án của tôi từ phòng cô đấy!”
“Cái gì?”
“Chúng đã tính đến chuyện giết cô.”
Cô há mồm ra nhưng không nói gì.
“Nếu không thì chúng đã phải photocopy bệnh án và để lại chỗ cũ. Chúng không muốn để lại một thứ gì ở phòng khám để cảnh sát Durham có thể liên hệ cô với dự án.”
Cô lắc đầu, nhưng lý lẽ của tôi khó mà bác bỏ. Tôi giắt khẩu tự động vào thắt lưng rồi nhặt khẩu 38 ly của mình lên.
“Chúng ta phải rời khỏi đây. Thật nhanh. Có thể bọn khác đang đến gần.”
Mắt cô mở to. “Bọn khác?”
Tôi bỗng ngộ ra tất cả. “Bọn NSA nghe trộm điện thoại của tôi. Khi chúng thấy Ewan McCaskell để lại tin nhắn, chúng biết tôi chưa nói chuyện được với tổng thống. Đó là tất cả những gì mà chúng mong đợi. Tôi đã quá kích động khi thấy tin nhắn.”
Tôi nắm tay cô. Bàn tay lạnh và mềm rũ. “Chúng ta phải chạy thôi. Rachel. Ngay bây giờ. Nếu không, chúng ta chỉ có nước chết ở đây thôi.”
“Chạy đi đâu?”
“Bất cứ đâu. Không xác định. Chúng ta phải biến mất.”
“Không. Chúng ta không làm gì sai.”
“Điều đó chả có nghĩa lý gì.” Tôi chỉ vào gã nằm trên sàn và thấy hắn không còn thở nữa. “Cô có nghĩ rằng cái xác này là một trong những ảo giác của tôi không? ”
“Anh đã giết hắn,” cô nói với giọng của một đứa trẻ.
“Và tôi có thể làm lại điều đó. Lúc ấy hắn chuẩn bị nã một phát đạn vào đầu cô.”
Cô loạng choạng. Tôi đỡ cô, rồi dìu cô vào phòng ngủ của khách nơi tôi bị bất tỉnh ít phút trước.
“Cô nghỉ ở đây. Tôi phải đi kiếm mấy thứ.” Tôi cố nhét khẩu 38 ly vào tay cô, nhưng cô rụt lại. “Cô giữ đi,” tôi nài nỉ, bắt cô nắm lấy súng. “Nếu cô một mình ra khỏi đây, cô sẽ bị giết.”
Cô trừng trừng nhìn tôi với cặp mắt trống rỗng.
Tôi lấy khẩu tự động ra khỏi thắt lưng, kiểm tra để đảm bảo chốt an toàn đã gạt. “Hứa với tôi là đừng ra khỏi đây nhé.”
“Tôi sẽ không ra khỏi đây,” cô đờ đẫn nói.
Tôi rời phòng khách và lao nhanh lên gác. Phòng ngủ của tôi ở bên trái cầu thang. Phía bên phải là một phòng ngủ tôi dành để chứa đồ. Tôi kéo một chiếc ghế cũ vào hốc nhỏ trong phòng rồi đứng lên. Với tay là tôi có thể chạm tới tấm gỗ dán dẫn lên gác xép. Tôi đẩy mảnh gỗ vuông ra rồi dùng sức nâng mình chui vào đó.
Tôi đứng lom khom để khỏi bị đinh trên xà gồ thò ra đâm phải, tôi giữ thăng bằng trên rui nhà, nhìn quanh để tìm phương hướng. Ánh sáng lọt qua mái chìa và lỗ thông hơi dưới vòm đủ để tôi thấy đường. Tôi dò dẫm hai mươi bước sang phải rồi quỳ xuống. Nằm trên tấm cách nhiệt bằng sợi thủy tinh màu hồng là một chiếc búa và một cái xà beng tôi để lại cách đây bốn tuần, hình như bất cẩn bỏ quên. Tôi nhặt chúng lên và bước nhanh đến chỗ sàn lát gỗ dán dày 6 li.
Lách xà beng vào khe giữa hai tấm gỗ, tôi gõ búa cho lún sâu xuống, rồi bẩy mạnh xà beng. Tấm gỗ dán toác ra. Tôi cắm đầu xà beng vào lỗ nứt ấy, bẩy mạnh lên, làm toạc một mảnh gỗ chừng sáu mươi phân. Tôi lôi một chiếc túi thể thao nhỏ bằng nylon từ hang tối phía dưới, kéo mở khóa ra. Ánh sáng mờ mờ lọc qua mái chìa chiếu sáng những đường nét chữ nhật của một hộ chiếu và hai xấp tiền khá dày. Mỗi xấp toàn tiền 100 đô. Tất cả khoảng hai mươi nghìn đô.
Cách đây năm tuần, khi Fielding nói với tôi rằng tôi cần phải giấu một cái bọc như thế, tôi đã cười ông. Nhưng ông đã tiên liệu ngày này sẽ tới. Kéo khóa túi lại, tôi bò trên rui nhà, tìm đến lỗ thông mà ném chiếc túi xuống sàn. Cánh tay tôi run lên vì căng thẳng khi tôi thả người xuống ghế rồi kéo tấm gỗ vuông đậy lỗ thông lại như cũ.
Khi chân tôi vừa chạm sàn nhà, hình ảnh Rachel hoảng hốt chạy ra khỏi nhà bỗng ngập tràn tâm trí tôi. Tôi nắm chiếc túi và chạy xuống gác.
Cô vẫn ngồi trên giường, mắt đờ đẫn vì sốc.
“Đến lúc đi rồi,” tôi nói. “Cô sẵn sàng chưa?”
Cô chớp mắt nhưng không nói gì.
Tôi nắm lấy tay cô, kéo cô đứng dậy. “Tôi cần cô bình tĩnh được năm phút, sau đó cô có thể gục xuống nếu cần. Nào ta đi.”
Tôi kéo cô qua hành lang và bếp đến phòng giặt đồ có cửa thông ra ga ra. Để cô đứng đó, tôi chạy vào lấy chiếc hộp của Fielding ở cửa sau rồi quay lại lấy khẩu 38 ly từ tay cô.
“Cô cầm lấy cái này,” tôi vừa nói vừa đưa cho cô chiếc hộp. “Cứ đợi ở đây đến khi tôi gọi cô.”
Không ngập ngừng để nỗi sợ có cơ lấn át, tôi mở toang cửa từ nhà ra ga ra rồi chĩa súng xông vào, lia từ trái qua phải, bao quát mọi góc bắn.
Ga ra trống rỗng.
Tôi lướt nhanh một vòng quanh chiếc Acura của mình, rồi quỳ xuống nhìn dưới gầm.
“Nào đi!” tôi kêu to. “Nhanh lên!”
Đế giày của Rachel rin rít trên sàn xi măng trơn nhẵn. Tôi mở cửa xe cho cô, đỡ lấy chiếc hộp của Fielding và đặt xuống ghế sau. “Nếu có chuyện gì xấu xảy ra, nó sẽ xảy ra ngay bây giờ.” Tôi vừa ngồi vào sau tay lái vừa nói. “Cô ngồi thấp xuống.”
Cô tuột xuống sàn xe. Chỏm đầu cô chỉ hơi cao hơn khung cửa. Tôi ấn đầu cô xuống, rồi khởi động máy và lùi xe.
“Cứ ngồi yên thế.”
Tôi chạm tay vào hộp điều khiển từ xa kẹp trên tấm chắn nắng. Động cơ nâng cửa ga ra rú lên trên đầu chúng tôi, rồi cánh cửa ga ra rộng màu trắng từ từ kéo lên. Tôi siết chặt khẩu súng của tên giết người trong tay, nhìn xem có bóng đôi chân nào trong khoảng nắng chữ nhật đang mỗi lúc một rộng ra không.
Không có gì.
Đúng khoảnh khắc cửa ga ra nâng lên khỏi nóc xe, tôi rú ga. Chiếc Acura lùi vọt ra sân xi măng giữa ánh nắng lóa mắt. Tôi bấm điều khiển từ xa để đóng cửa ga ra, rồi đánh tay lái sang trái. Tôi không rà phanh cho đến khi chiếc xe thẳng hướng phố Willow.
“Chuyện gì vậy?” Rachel hoảng hốt kêu lên vì thấy tôi dừng đột ngột.
“Ngồi xuống!”
Tôi định bụng cứ thong thả chạy nếu đường phố vắng người, nhưng khi chúng tôi dừng lại, tôi mơ hồ cảm thấy có tay thiện xạ vô hình đang ngắm bắn chúng tôi. Tôi sang số, nhấn hết ga lao thẳng lên phố Willow, để lại trên mặt đường sau lưng vệt bánh xe cao su dài hai mét.