Cấp độ 3 - Chương 01

Cấp độ 3 - Chương 01


Ngày đăng
Tổng cộng 5 hồi
Đánh giá 9.7/10 với 6261 lượt xem

LỜI CẢM ƠN
Như thường lệ, chúng tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành và sự khâm phục tới Thanh tra Holly Pera của Đội điều tra các vụ ám sát cùng đồng nghiệp của cô, Joe Tomey của sở cảnh sát San Francisco, những người ngày ngày phải đối mặt với những gì mà chúng tôi chỉ có công ghi chép lại. Chúng tôi rất biết ơn vì họ đã giới thiệu chúng tôi với Dono Zografoss của Đội Đặc nhiệm, người đã giúp chúng tôi nhận thức được sự khiếp đảm của bom nổ chậm. Và cảm ơn Trung uý Joe Sanchez và Thanh tra Steve Engler (đã nghỉ hưu) của sở cảnh sát Berkeley, những người đã có mặt trong thời điểm điên cuồng của những năm 60 và trong vài giờ đã làm sống lại sự huỷ diệt và giấc mơ của Cộng hoà Nhân dân Berkeley (một phong trào chính trị cực đoan của sinh viên ở Berkeley).
Và chúng tôi cũng xin cảm ơn Chuck Zion, con người đáng quý đã mất ngày 11 tháng 9 năm 2001 trong vụ tấn công Toà nhà thương mại thế giới.
NHỮNG LỜI TÁN THƯỞNG DÀNH CHO JAMES PATTERSON
“Đầy kịch tính... cách kể chuyện đầy sáng tạo và bất ngờ”.
Sunday Times
“Đầy những tình huống hồi hộp và lôi cuốn”.
Daily Mail
"Một cốt truyện với những tình huống giật gân và diễn biến khó lường."
Publishers Weekly
"Tiểu thuyết cho những đêm không ngủ”
Express
"Cross là một trong những nhân vật hay nhất của thể loại truyện trinh thám đương thời.-'
San Francisco Examiner
"Nhà ảo thuật vung chiếc dũa thần lên và một câu truyện đáng giá ngàn vàng ra đời... Những cảm giác êm ái, không làm người đọc hoảng loạn, sự hóm hỉnh khi câu truyện đến hồi gay cấn. Đọc như trong mơ."
Kirkus Revieius
"Bậc thầy của thể loại truyện trinh thám. Những người hâm mộ chỉ có một mong muốn duy nhất: hãy viết nhanh hơn nữa".
USA Today

Đó là một buổi sáng tháng tư trong lành, êm ả và bình yên, ngày bắt đầu một tuần khủng khiếp nhất trong cuộc đời tôi.
Tôi đang chạy bộ dọc bờ Vịnh cùng Martha, chú chó của tôi. Chủ nhật nào cũng vậy, tôi dậy sớm, nhét nửa thứ hai đầy ý nghĩa của mình vào ghế trước của chiếc Explorer. Tôi tự bắt mình chạy 3 dặm, từ pháo đài Mason đến cây cầu và ngược lại. Vừa đủ để thuyết phục bản thân là ở tuổi 36, tôi gần có được cái mà người ta vẫn gọi là dáng đẹp.
Sáng hôm đó, Jill, bạn thân của tôi cũng đi cùng để đưa chú chó nhỏ của cô ấy với cái tên Mắt rắn chạy bộ. Thực ra đối với cô ấy đây chỉ là một cách khởi động cho vòng đua xe đạp lên Mount Tamalpais sau đó trong ngày.
Thật khó có thể tin được là mới chỉ có 5 tháng kể từ ngày Jill bị sẩy thai. Giờ đây thân hình cô ấy đã lại rám nắng và thon thả.
- Sao, tối hôm qua thế nào? Cô ấy hỏi, đi bên cạnh tôi - Nghe người ta đồn là Lindsay có hẹn.
- Cậu có thể gọi đó là hẹn hò cũng được... - tôi nói, mắt nhìn thẳng vào nóc pháo đài Mason, và cảm thấy mình chạy quá chậm - Cậu cũng có thể gọi Bát-đa là một địa điểm du lịch.
Cô ấy nhăn mặt - Xin lỗi nhé, lẽ ra mình không nên hỏi.
Vừa chạy tôi vừa nhớ lại một cách khó chịu về Franklin Fratelli, một tay rất có thế lực trong ngành "tiếp thị tài sản" (một cách nói hoa mỹ là anh ta cho người đi tìm những doanh nhân bị phá sản và không đủ tiền để trả góp cho những chiếc BMW và đồng hồ nhãn hiệu Franck Muller). Trong vòng hai tháng liền, bất cứ khi nào đến Toà thị chính là anh ta lại ló mặt vào phòng tôi cho đến khi anh ta làm tôi mềm lòng đến mức phải mời anh ta về nhà ăn tối vào thứ 7 (tôi đã phải cất món sườn nấu rượu vang đỏ vào lại trong tủ lạnh khi cuối cùng anh ta lại không xuất hiện).
- Anh ta cho mình leo cây, tôi nói khi đang sải một bước dài. Đừng hỏi, mình sẽ không kể chi tiết đâu.
Chúng tôi chạy đến cuối bãi cỏ Marina Green, trong khi tôi gần đứt hơi thì chẳng khác nào Mary Decker, Jill nhún nhẩy như còn có thể chạy thêm một vòng nữa.
- Mình chịu cậu đấy, tôi nói, tay chống nạnh và hổn hển thở.
- Bà mình bắt đầu đi bộ 5 dặm mỗi ngày khi bà 60 tuổi. Bây giờ bà đã 90 rồi và chẳng ai biết giờ bà ở đâu - cô ấy vừa làm một vài động tác co giãn gân vừa nói.
Cả hai chúng tôi cùng bật cười. Thật mừng khi nhìn thấy Jill đang cố gắng lấy lại phong độ và tôi lại được nghe tiếng cười trong giọng nói của cô ấy.
- Đi uống cà phê không? Tôi hỏi. Martha mời.
- Không được rồi. Rick bay từ Chicago về. Anh ấy muốn đạp xe lên xem triển lãm của Dean Friedlich ở Bảo tàng Bắc đẩu bội tinh ngay. Cậu biết chó con thế nào khi anh ấy không được tập thể dục rồi đấy.
Tôi cau mày - Mình chẳng thể nào hình dung ra Rick như một chú chó con cả.
Jill gật đầu và giơ cao hai tay lên đế cởi cái áo thể thao.
- Jill, cái quái gì thế? Tôi há hốc mồm vì kinh ngạc.
Phía dưới dây áo trong của cô ấy thoáng lộ ra một vài vết thâm nhỏ, trông giống như những vết ngón tay hằn trên da.
Jill buộc áo lên vai, rõ ràng là rất bối rối - Mình bị va vào cửa buồng tắm. Cậu để ý làm gì - Cô ấy nháy mắt.
Tôi gật đầu, nhưng những vết thâm vẫn làm tôi suy nghĩ. Cậu không muốn đi uống cà phê thật chứ? - Tôi hỏi.
- Mình xin lỗi... Cậu biết E- Exigente rồi đấy, mình chỉ cần muộn 5 phút thôi là nó bắt chước ngay. Jill huýt sáo gọi Mắt rắn và chạy ra xe. Jill vẫy tay - Đến cơ quan gặp nhé.
- Thế nào, còn mày thì sao? Tôi quỳ xuống nựng Martha. Trông mày có vẻ muốn uống một tách cà phê đấy. Tôi buộc sợi dây vào cổ nó và đi về phía quán cà phê Starbucks trên phố Chestnut.
Từ trước đến giờ tôi vẫn thích khu Marina. Những con phố ngoằn nghèo, những ngôi nhà được phục chế đầy màu sắc, những gia đình, tiếng những con mòng biển, không khí biển từ Vịnh.
Tôi đi qua phố Alhambra, mắt không rời khỏi một ngôi nhà 2 tầng tuyệt đẹp mà mỗi lần đi qua tôi vẫn thường thán phục. Những cánh cửa chớp được chạm trổ thủ công và mái nhà lợp ngói giống như ở Grand Canal. Tôi giữ Martha khi có chiếc xe đi qua.
Đấy là tất cả những gì tôi còn nhớ về khoảnh khắc đó. Cả khu phố đang tỉnh giấc. Một đứa bé tóc đỏ mặc chiếc áo thể thao FUBU đang tập trên chiếc bàn trượt hiệu Razor. Một cô gái trẻ mặc bộ áo liền quần đang vội vã đi qua góc phố, trên tay bê một bọc quần áo.
- Đi nào Martha - Tôi kéo mạnh sợi dây - Tao ngửi thấy mùi cà phê rồi đấy.
Đúng lúc đó ngôi nhà có mái ngói nổ tung, như thể San Francisco chợt biến thành Beirut.
***

Trời ơi! tôi hổn hển khi một luồng khí nóng và những mảnh vỡ xô tôi ngã xuống nền đất.
Tôi cúi xuống che cho Martha khi hơi nóng như thiêu như đốt từ vụ nổ băng qua chúng tôi. Vài giây sau, tôi cố đứng dậy. Chúa ơi... tôi không thể tin nổi mắt mình. Ngôi nhà mà tôi vừa trầm trồ thán phục giờ chỉ còn trơ lại bức tường bên ngoài và lửa đang thốc ra từ tầng thượng.
Trong giây phút ấy tôi hiểu rằng có thể còn có người ở trong nhà.
Tôi buộc Martha vào cột đèn. Chỉ cách đó 50 feet là ngọn lửa đang cháy bùng. Tôi chạy băng qua đường đến ngôi nhà đang cháy. Tầng 1 đã hoàn toàn bị thiêu trụi. Bất cứ ai còn ở tầng trên chắc chắn không còn cơ hội sống sót.
Tôi dò tìm điện thoại di động trong túi và nhấn 911. "Đây là Trung uý Lindsay Boxer, cảnh sát San Francisco, số 2-7-2-1. Vừa có một vụ nổ ở góc đường Alhambra và Pierce. Nhà ở. Có thể có người thiệt mạng, cần cấp cứu và cứu hoả. Nhanh lên!”
Tôi ngắt máy. Theo đúng nguyên tắc, lẽ ra tôi phải chờ, nhưng nếu có ai còn ở trong kia, sẽ không còn thời gian nữa. Tôi xé cái áo thể thao và phủ hờ lên mặt. "Lạy chúa, Lindsay", tôi nói và nín thở.
Rồi tôi chạy vào ngôi nhà đang bừng bừng lửa.
- Có ai ở trong này không? Tôi hét lên, nhưng ngay lập tức bị ngẹt thở bởi làn khói xám xịt và dày đặc. Sức nóng phả vào mắt và mặt tôi, chỉ cần hé ra khỏi lớp vải áo là mặt tôi rất bỏng. Bức tường đang cháy, từng mảng thạch cao lơ lửng trên đầu tôi.
- "Cảnh sát đây!", tôi lại hét lên. "Có ai ở đây không?".
Khói như những chiếc dao cạo cứa vào phổi tôi. Không thể nghe thấy gì qua tiếng lửa. Tôi chợt hiểu tại sao những người bị kẹt vì lửa trên những tầng cao thà nhảy xuống tự tử còn hơn là phải chịu cái nóng khủng khiếp.
Tôi che mắt, cố chen qua đám khói cuồn cuộn. Lần cuối cùng, tôi hét lên: "Có còn ai ở trong đấy không?".
Tôi không thể đi tiếp được nữa. Lông mày tôi cháy xém. Tôi hiểu rằng mình có thể chết nếu còn tiếp tục ở lại trong này.
Tôi quay lại, chạy về phía ánh sáng và hơi mát mà tôi biết là ở đằng sau. Bất chợt, tôi nhìn thấy hai cái xác, thi thể của một người đàn bà và một người đàn ông. Rõ ràng là đã chết, quần áo họ đang bốc cháy.
Tôi dừng lại, cảm thấy ruột gan nôn nao. Nhưng tôi không làm gì được cho họ nữa rồi.
Đúng lúc đó tôi nghe thấy tiếng nghẹn. Tôi không biết có thật không nhưng tôi dừng lại, cố lắng tai nghe qua tiếng gầm của lửa. Tôi gần như không thể chịu được cơn đau của hơi nóng đang quật vào mặt.
Rồi tôi lại nghe thấy có tiếng của ai đó thật.
Có ai đó đang khóc.
***

Tôi hít một hơi thật dài và tiến sâu hơn nữa vào ngôi nhà đang đổ sụp. "Ai đấy, ở chỗ nào?" Tôi gọi và loạng choạng đi qua đống hoang tàn đang bốc lửa. Tôi bắt đầu thấy sợ, không chỉ sợ cho bất cứ ai vừa khóc mà còn sợ cho chính bản thân mình.
Tiếng khóc lại cất lên, vọng ra từ phía cuối ngôi nhà. Tôi lao tới và hét to - Tôi đến đây! Phía bên trái tôi, một cái xà gỗ đổ rầm. Càng tiến sâu, tôi càng gặp rắc rối. Tôi nhìn thấy dãy hành lang nơi có tiếng khóc, trần nhà treo lơ lửng ở nơi đã từng là tầng hai.
- Cảnh sát đây. - Tôi kêu to - Ai đang ở đâu?
Không có tiếng trả lời.
Rồi tôi lại nghe thấy tiếng khóc mỗi lúc một gần hơn. Tôi che mặt và lảo đảo đi dọc hành lang. Cố lên, Lindsay... Chỉ còn vài mét nữa thôi.
Tôi chen qua khung cửa đang bốc lửa. Chúa ơi, buồng trẻ em.
Cái giường lật úp vào tường, bị phủ bởi một lớp bụi khói dầy đặc. Tôi gọi to và lại nghe thấy tiếng khóc. Một tiếng ho nghèn nghẹn.
Khung giường bỏng rẫy, nhưng tôi cũng cố kéo được nó ra khỏi bức tường. Ôi, Trời ơi... Tôi nhìn thấy đường nét khuôn mặt của một đứa trẻ.
Một đứa bé trai. Có lẽ khoảng 10 tuổi.
Đứa bé vừa khóc vừa ho. Nó gần như không nói được. Cả căn phòng bị chôn vùi trong đống gạch vữa đổ nát. Tôi không thể chờ được. Bất cứ lúc nào khói cũng có thể giết chết đứa trẻ và cả tôi nữa.
- Cô sẽ đưa cháu ra khỏi nơi này, tôi nói rồi chui vào sau chiếc giường và lấy hết sức bình sinh, tôi kéo nó ra khỏi giường. Tôi ôm vai đứa bé, bế nó lên và thầm cầu nguyện tôi không làm nó đau.
Tôi lao đảo đi qua lửa, trên tay bế đứa trẻ. Khói khô ngạt và độc hại ở khắp mọi nơi. Tôi nhìn thấy một luồng ánh sáng ở phía mà tôi nghĩ là cửa nơi tôi đã đi vào nhưng không dám chắc.
Tôi ho, đứa bé bám chặt cứng lấy tôi. "Mẹ ơi, mẹ," nó khóc. Tôi siết chặt lấy nó, như để nói với nó rằng tôi sẽ không để nó chết.
Tôi gào lên, cầu mong có ai đó trả lời - Có ai ngoài đó không?
- Ở đây, tôi nghe có tiếng nói qua bóng tối.
Tôi loạng choạng bước qua đống đổ nát, tránh những đám cháy. Giờ tôi đã nhìn thấy đường ra. Có tiếng còi báo động và tiếng của một người lính cứu hoả. Anh ta nhẹ nhàng nhấc thằng bé ra khỏi tay tôi. Một người lính cứu hỏa khác choàng tay qua vai tôi. Chúng tôi bước ra ngoài. Vừa ra đến ngoài, tôi ngã khuỵu xuống, hít đầy phổi bầu không khí trong lành. Một người trong đội cấp cứu phủ tấm chăn lên người tôi. Tất cả thật tử tế, thật chuyên nghiệp. Tôi gục xuống cạnh chiếc xe cứu hỏa đỗ bên lề đường. Tôi cảm thấy buồn nôn, rồi tôi nôn oẹ.
Một ai đó chụp mặt nạ ôxy lên miệng tôi, tôi hít vài hơi dài. Một người lính cứu hoả cúi xuống hỏi: "Cô ở trong đó khi căn nhà nổ tung à".
- Không. Tôi lắc đầu - Tôi vào để giúp. Tôi gần như không nói cũng chẳng suy nghĩ được. Tôi mở cái túi đeo bên hông và đưa cho anh ta xem phù hiệu. "Trung uý Boxer", tôi nói, giọng nghẹn lại. "Phòng điều tra các vụ giết người."
***

- Tôi không sao, tôi nói, cố rút người ra khỏi vòng tay của nhân viên đội cấp cứu. Tôi đi lại phía đứa bé, nó đã được đặt nằm trên xe đẩy và đẩy vào xe cứu thương. Trên khuôn mặt nó, chỉ duy nhất có mí mắt là hơi động đậy. Nhưng đứa bé còn sống. Trời ơi, tôi đã cứu sống nó.
Trên đường, cảnh sát đang chăng dây ngăn không cho những người qua lại vào khu vực cấm. Tôi nhìn thấy cậu bé tóc đỏ trên chiếc bàn trượt Razor. Những khuôn mặt hoảng sợ khắp xung quanh.
Đến lúc này tôi mới chợt ý thức được có tiếng chó sủa. Chúa ơi, Martha vẫn đang bị buộc vào cột đèn. Tôi chạy lại và ôm chặt lấy nó trong khi nó liếm mặt tôi.
Một người lính cứu hoả đi lại chỗ tôi, tiêu ngữ trên mũ anh ta cho biết anh ta là đội trưởng.
- Tôi là đội trưởng Ed Noroski. Cô ổn chứ?
- Chắc vậy, tôi nói.
- Cảnh sát bên cô làm anh hùng trong giờ làm việc chưa đủ hay sao hả Trung úy? Đội trưởng Noroski nói.
- Tôi nhìn thấy ngôi nhà nổ khi chạy ngang qua. Có vẻ như một vụ nổ ga. Tôi chỉ làm những gì mà tôi nghĩ tôi nên làm thôi.
- Cô đã làm rất tốt. Trung uý ạ. Đội trưởng đội cứu hỏa quay lại nhìn đống đổ nát. Nhưng đây không phải là một vụ nổ ga.
- Tôi thấy hai xác chết bên trong.
- Vâng, Noroski gật đầu. Một người đàn ông và một phụ nữ. Có một người khác ở phòng sau dưới tầng trệt. Đứa bé kia đã rất may mắn được cô kịp cứu nó ra.
- Vâng, tôi nói. Lồng ngực tôi như bị nỗi kinh hoàng thắt chặt lại. Nếu đây không phải là một vụ nổ ga....
Rồi tôi nhìn thấy Warren Jacobi, thanh tra số một của tôi, đang đi ra từ phía đám đông, chìa phù hiệu ra để tiến về phía tôi.
Jacobi đang có "tiền cửu", chúng tôi vẫn thường gọi ca tuần sáng chủ nhật như vậy khi thời tiết ấm lên.
Jacobi có một khuôn mặt bị thịt không bao giờ biết cười kể cả khi anh ta kể chuyện tiếu lâm, và một đôi mắt sâu, tối mà không một điều gì có thể làm sáng lên. Nhưng khi anh ta nhìn chằm chằm vào cái hố nơi đã từng là ngôi nhà số 210 Alhambra và nhìn thấy tôi, đen đúa, bẩn thỉu, ngồi gục và đang hổn hển thở - Jacobi đờ người vì bị sốc.
- Trung uý, cô không sao chứ?
- Tôi không sao, chắc vậy. Tôi cố hoàn hồn.
Anh ta nhìn ngôi nhà, rồi lại nhìn tôi - Trông còn tệ hơn cái nhà cũ tồi tàn của cô nhỉ, Trung uý. Tôi dám chắc cô sẽ sửa nó lại như mới - Anh ta nhe răng - Có phái đoàn Palestin đến mà tôi không biết à?
Tôi kể cho anh ta những gì tôi đã thấy. Không có khói cũng chẳng có lửa, tầng trên đột ngột nổ tung.
- Kinh nghiệm 27 năm trong nghề cho tôi linh cảm rằng đây không phải là một vụ nổ bình nước nóng, Jacobi nói.
- Anh biết ai sống ở khu này mà lại dùng bình tắm nóng lạnh ở tầng trên à?
- Tôi chẳng biết ai sống ở những nơi như thế này. Cô chắc là cô không cần phải đi bệnh viện chứ? Jacobi cúi xuống chỗ tôi ngồi. Từ lúc tôi bị bắn trong vụ Coombs, Jacobi gần như đã trở thành một người bảo vệ tôi. Anh thậm chí còn thôi không kể những câu chuyện cười ngớ ngẩn chê bai phụ nữ nữa.
- Không đâu Jacobi, tôi ổn mà.
Tôi thậm chí không biết điều gì đã làm tôi để ý đến nó. Nó được đặt trên vỉa hè, dựa vào một cái xe đang đỗ và tôi nghĩ, khỉ ạ, Lindsay, sao lại ở kia. Ngay sau khi tất cả mọi việc vừa mới xảy ra. Một cái ba lô màu đỏ, cả triệu sinh viên dùng nó. Nằm ngay ở đằng kia.
Tôi lại bắt đầu hoảng loạn. Tôi đã từng được biết đến những vụ nổ liên tiếp ở Trung Đông. Rất có thể vừa rồi ngôi nhà bị nổ tung vì bị đặt bom, ai mà biết được. Mắt tôi mở to. Tôi nhìn chòng chọc vào cái ba lô đỏ.
Tôi túm lấy Jacobi và nói: Tôi muốn tất cả mọi người đi mau ra khỏi chỗ này, ngay lập tức. Chuyển mọi người đi ngay!
***

Từ cuối phòng kho chứa đồ ở tầng hầm, Claire Washburn kéo cái hòm cũ quen thuộc mà cô đã không nhìn thấy hàng năm nay. Trời ơi...
Sáng hôm đó cô dậy sớm, sau khi uống một tách cà phê trên nhà, nghe tiếng những con chim giẻ cùi đầu tiên trong mùa, khoác lên người chiếc sơ mi bò và cái quần jeans, cô quyết tâm đi làm cái công việc đáng khiếp đảm là lau dọn phòng kho.
Đầu tiên là bỏ đi một loạt những bộ cờ cũ mà từ lâu họ đã không đụng tới. Rồi đến bộ găng tay và đệm ống chân dành để chơi bóng chày từ thời Little League và Pop Warner. Tấm chăn gập lại giờ chẳng khác nào một đống bụi.
Rồi cô nhìn tới cái hòm nhôm bị chôn vùi dưới tấm vải mốc meo. Trời ơi.
Cây đàn cello cũ của cô. Claire mỉm cười nhớ lại những kỷ niệm. Chúa ơi, thế mà đã 10 năm rồi kể từ lần cuối cùng cô cầm nó trong tay.
Cô lôi mạnh nó ra từ cuối căn buồng kho. Chỉ nhìn thấy nó đã làm cô nhớ lại biết bao nhiêu kỷ niệm: hàng giờ học các gam nhạc, hàng giờ tập luyện. Mẹ cô vẫn thường nói: "Một ngôi nhà không có âm nhạc là ngôi nhà không có sự sống". Ngày sinh nhật lần thứ 40 của Edmund, chồng cô là lần cuối cùng cô chơi đàn.
Claire tháo cái kẹp và nhìn những thớ gỗ trên cây đàn. Nó vẫn đẹp, một món quà học bổng của khoa nhạc ở Hampton. Khi cô còn chưa biết là cô sẽ chẳng bao giờ trở thành một bà mẹ bận rộn và sẽ đi học y, nó đã từng là vật làm cô vui thích nhất.
Tiếng nhạc vang lên trong đầu cô. vẫn là đoạn nhạc đã từng làm khó cô đến thế: phần thứ nhất của bản Côngxéctô D trưởng dành cho đàn Cello của Haydn. Claire nhìn quanh, bối rối. Mặc kệ, Edmund vẫn còn đang ngủ. Sẽ chẳng ai nghe thấy.
Claire nhấc cây đàn ra khỏi cái ổ mốc meo. Cô rút cây vĩ, cầm lên tay. Ôi...
Một phút dài lên dây, những sợi dây cũ lại căng ra với những nốt nhạc quen thuộc. Được ngay, chỉ cần đưa cây vĩ qua những sợi dây đàn, hàng triệu triệu cảm giác đã quay trở lại. Cô thấy nổi da gà. Cô chơi những nhịp đầu tiên của bản Côngxéctô. Nghe hơi lạc điệu một chút nhưng những cảm giác đã quay trở lại. "Ha, vẫn còn khá lắm", cô bật cười. Cô nhắm mắt và chơi tiếp thêm một đoạn.
Rồi cô trông thấy Edmund, vẫn trong bộ pygiama, đứng ở cuối cầu thang và đang nhìn cô.
- Anh biết là anh đã dậy rồi - anh gãi đầu - Anh nhớ là anh đã đeo kính, thậm chí đã đánh răng. Nhưng đúng là lạ thật, vì chắc chắn là anh đang nằm mơ.
Edmund khẽ ngân nga đoạn nhạc mà Claire vừa chơi - Thế nào, em nghĩ là em sẽ chơi tiếp đoạn sau chứ? Đoạn đấy mới khó đấy.
- Đấy có phải là một lời thách đố không thưa nhạc trưởng Washburn?
Anh cười ranh mãnh.
Đúng lúc đó có tiếng chuông điện thoại. Edmund nhấc cái điện thoại không dây. "May cho em là có điện thoại đấy nhé", anh làu bàu. "Cơ quan gọi. Hôm nay là chủ nhật đấy Claire ạ. Họ có bao giờ để cho em yên không?".
Claire cầm điện thoại. Freddie Rodriguez, đồng nghiệp của cô ở phòng khám nghiệm tử thi gọi. Claire nghe điện, rồi cô buông điện thoại.
- Trời ơi, Edmund... có vụ nổ trong phố! Lindsay bị thương.
***

Tôi không biết điều gì đã làm tôi phản ứng như thế. Có thể đó là ý nghĩ về 3 xác chết trong nhà, hoặc có thể là những cảnh sát và lính cứu hoả đang đứng tại hiện trường. Tôi nhìn chăm chăm vào cái ba lô, và trong thâm tâm tôi biết là nó nguy hiểm, hết sức nguy hiểm. "Tất cả mọi người lùi lại!". - Tôi lại hét lên.
Tôi tiến tới cái ba lô. Tôi còn chưa biết mình sẽ làm gì, nhưng toàn bộ khu vực phải được giải tán.
- Không, trung uý. Jacobi níu tay tôi. Cô sẽ không làm thế, Lindsay.
Tôi gạt cánh tay anh ta ra - Hãy đưa mọi người ra khỏi nơi này, Jacobi.
- Có thể tôi không phải là cấp trên của cô, Trung uý ạ, Jacobi nói, lần này có vẻ kiên quyết hơn - nhưng tôi đã ở trong ngành trước cô 14 năm. Tôi nói cho cô biết, đừng có lại gần cái túi.
Đội trưởng cứu hỏa vội vàng chạy lại, hét to:
- Có thể là chất nổ. Tất cả mọi người tránh xa. Gọi Magitakos ở Đội phá bom lên đây.
Chưa đầy một phút sau, Niko Magitakos, chỉ huy đội phá bom của thành phố cùng hai chuyên viên mặc thiết bị bảo vệ nặng chịch chạy qua chỗ tôi, tiến về phía cái ba lô đỏ. Niko đẩy một thiết bị trông như cái hộp, một máy chiếu X quang. Một chiếc xe tải vuông bọc sắt, chẳng khác nào một cái tủ lạnh khổng lồ, từ từ lăn như một điềm gở tới chỗ cái ba lô.
Người kỹ thuật viên cầm máy chiếu X quang đứng cách khoảng 3 hay 4 feet để soi cái túi. Tôi dám chắc nó nguy hiểm, hay ít nhất thì cũng là vật để lại làm dấu hiệu. Tôi thầm cầu nguyện, đừng để nó nổ.
- Đưa xe vào đây, Niko quay lại đầy căng thẳng - Trông có vẻ nguy hiểm.
Vài phút sau, một tấm màn chắn bằng sắt được kéo ra khỏi chiếc xe và dựng lên làm rào cản bảo vệ. Người kỹ thuật viên lăn cái kẹp đến và nhẹ nhàng tiến tới cái túi. Nếu là một quả bom, nó có thể nổ bất cứ lúc nào.
Tôi thấy mình đang đứng như trời trồng giữa vành đai trắng. Một giọt mồ hôi chảy xuống má tôi.
Người kỹ thuật viên dùng cái kẹp nhấc ba lô vào trong xe.
Không có chuyện gì xảy ra.
- Tôi không soi thấy gì cả, người kỹ thuật viên cầm máy soi nói - Thử mở nó ra vậy.
Hai người kéo cái túi vào trong xe và Niko quỳ xuống trước cái túi. Với đôi tay thành thạo, anh mở khoá.
- Không có thuốc nổ, Niko nói. Chỉ là một cái đài bán dẫn ngớ ngẫn.
Tất cả cùng thở phào. Tôi lao ra khỏi đám đông, chạy về phía cái túi. Một mảnh giấy gài trên dây túi, dưới lớp plastic. Tôi nhấc lên đọc.
Bùm ! Đồ ngu.
Tôi đã đúng. Đó là vật để lại làm dấu. Trong túi, cạnh cái đài bán dẫn, là một bức ảnh được đóng khung. Nó được in ra từ máy tính, chụp bằng máy ảnh kỹ thuật số. Khuôn mặt của một người đàn ông điển trai, khoảng 40 tuổi.
Một trong những thi thể đã cháy thành than ở trong nhà, tôi dám chắc.
Morton Lightoiver, dòng chữ dưới bức ảnh viết, kẻ thù của nhân loại
- Hãy để cho nhân loại lên tiếng.
Một cái tên in ở dưới cùng. AUGUST SPIES.
Chúa ơi, đây là một bản án tử hình !
Ruột gan tôi nôn nao.
***

Rất nhanh chóng, chúng tôi tìm được chủ sở hữu của ngôi nhà. Nó đúng là của người đàn ông trong bức ảnh, Morton Lightower và gia đình ông ta. Cái tên làm Jacobi bừng tỉnh.
- Có phải là ông chủ của Hệ thống X/L không?
- Chịu. Tôi lắc đầu.
- Cô chắc chắn biết mà - chủ của công ty chuyên về Internet. Ông ta thôi việc với khoảng 600 triệu cổ phiếu trong tay trong khi công ty thì chìm như một tảng đá. Cổ phiếu đã có lúc bán với giá 60 USD, giờ chỉ còn khoảng 60 xu.
Tôi bỗng nhớ đã từng đọc trên báo. "Tín ngưỡng của một kẻ tham lam". Ông ta định mua đội bóng, sắm những ngôi nhà sang trọng, cho lắp đặt hệ thống cửa bảo vệ trị giá 50,000 USD cho ngôi nhà của mình ở Aspen, cùng lúc đó bán tống bán tháo số cổ phiếu ông ta nắm trong tay và cho sa thải nửa số nhân viên của công ty.
- Tôi nghe nói các cổ đông của công ty đã phản ứng rất dữ dội, Jacobi nói và lắc đầu - Nhưng thế này thì hơi quá.
Phía sau tôi có tiếng một người đàn bà đang gào thét đòi vào. Thanh tra Paul Chin đưa cô ta tới, lách qua hàng tá những chiếc xe của các hãng phát thanh truyền hình và những đội quay phim. Cô ta đứng trước ngôi nhà bị đặt bom.
"Ôi, Trời ơi", cô ta há hốc mồm, lấy một tay che miệng. Chin đưa cô ta tới chỗ tôi - Em gái của Lightower, anh ta nói.
Tóc cô ta cột chặt ở sau đầu, áo len casơmia bỏ ra ngoài quần jeans, đi đôi giày đế thấp hiệu Manolo Blahnik mà tôi đã từng ngơ ngẩn ngắm cả mười phút trước khung kính của cửa hàng Neiman’s.
- Xin cô hãy bình tĩnh, tôi nói, đưa người đàn bà đang hoảng loạn đến trước một chiếc xe cảnh sát - Tôi là Trung úy Boxer, ở phòng điều tra các vụ giết người.
- Tôi là Dianne Aronoff, cô ta lẩm bẩm một cách thẫn thờ - Tôi nghe tin trên tivi. Mort? Charlotte? Bọn trẻ... Có ai còn sống không?
- Chúng tôi đã cứu được một cháu trai khoảng 10 tuổi.
- Eric, cô ta nói. Nó có sao không?
- Cậu bé đang ở Khoa bỏng của bệnh viện Cal Pacific. Tôi nghĩ là cháu sẽ ổn thôi.
- Ơn chúa! cô ta thốt lên. Sau đó cô ta lại lấy tay ôm mặt. Sao lại có thể thế này?
Tôi quỳ xuống trước Dianne Aronoff và cầm tay cô ta. Tôi khẽ siết mạnh - Cô Aronoff, tôi phải hỏi cô một vài câu hỏi. Đây không phải là một tai nạn. Cô có đoán được ai có thể có ý định sát hại anh trai cô không?
- Không phải là tai nạn, cô ta nhắc lại - Mortie  đã từng nói, các phương tiện thông tin đại chúng coi anh chẳng khác nào Bin Laden. Không một ai hiểu. Tất cả những gì anh làm chỉ là để kiếm tiền thôi mà.
Jacobi chuyển hướng - Cô Aronoff, có vẻ như vụ nổ bắt đầu từ tầng thượng. Cô biết có những ai có thể vào được trong nhà không?
- Có một người giúp việc, cô ta nói, đưa tay gõ nhẹ lên trán. Viola.
Jacobi thở hắt ra - Đáng tiếc đó có lẽ là thi thể thứ ba mà chúng tôi tìm được, nó bị chôn vùi dưới đống gạch vụn.
- Ôi..., Dianne Aronoff cố ghìm tiếng nấc.
Tôi siết chặt tay cô ta - Cô Aronoff này, tôi đã nhìn thấy vụ nổ. Quả bom được đặt ở bên trong. Một ai đó đã tìm cách vào nhà hoặc có chìa khoá. Cô hãy cố nghĩ xem.
- Có một cô giữ trẻ, cô ta thì thào. Tôi nghĩ là đôi khi cô ta ngủ ở đây.
- Thật may mắn cho cô gái. Jacobi nhìn lên trời. Nếu cô ta ở trong đó với cháu trai cô thì...
- Không phải người giữ trẻ của Eric. Dianne Aronoff lắc đầu - Mà là người giữ trẻ của Caitlin.
Jacobi và tôi nhìn nhau - Ai?
- Caitlin, cháu gái tôi, thưa Trung uý.
Khi nhìn thấy bộ mặt thất thần của chúng tôi, cô ta đờ người.
- Khi cô nói Eric là người duy nhất được cứu sống, tôi tưởng...
Chúng tôi nhìn nhau. Không còn bất cứ một người nào được tìm thấy trong ngôi nhà.
- Trời ơi, Thanh tra, con bé mới chỉ có 6 tháng tuổi.
***

Đấy chưa phải là tất cả.
Tôi chạy về phía Đội trưởng Noroski, chỉ huy đội cứu hoả hét to với người của anh ta trong ngôi nhà - Em gái của Lightower nói có một đứa bé 6 tháng tuổi ở trong nhà.
- Không có ai ở trong nhà Trung uý ạ. Người của tôi vừa tìm hết tầng trên. Trừ phi cô muốn đi vào trong đó và tự mình tìm.
Bỗng nhiên hình ảnh cả ngôi nhà đang cháy trở lại trong đầu tôi. Giờ tôi nhìn thấy rồi. Chính ở cuối cái hành lang nơi tôi tìm thấy thằng bé. Tim tôi nảy tung - Không phải ở tầng trên đâu Đội trưởng ạ, - khu vực phía dưới. Dưới đó cũng có thể là phòng của đứa trẻ.
Noroski lấy điện đài liên lạc với ai đó vẫn đang ở trong ngôi nhà. Anh ta lệnh cho người đó đi xuống sảnh.
Chúng tôi đứng trước ngôi nhà đang bốc khói, một cảm giác kinh sợ cuộn lên trong ruột gan tôi. Cái ý nghĩ là đứa bé vẫn còn ở trong đó, một người mà tôi đã có thể cứu. Chúng tôi chờ trong khi người của Noroski lục tìm đống đổ nát.
Cuối cùng một người lính cứu hoả chui ra từ đống hoang tàn ở tầng trệt - Không có gì, anh ta hét lên. - Chúng tôi đã tìm thấy phòng của đứa bé. Cái cũi và xe đẩy bị chôn vùi dưới đống gạch vụn. Nhưng không có đứa trẻ nào cả.
Dianne Aronoff oà lên vì mừng. Cháu gái cô ta không có trong nhà. Rồi cô ta lại hoảng loạn, trên gương mặt cô ta xuất hiện một nỗi kinh hoàng mới. Nếu Caitlin không có ở trong đó, vậy nó ở đâu?
***

Charles Danko đứng trong đám đông và theo dõi. Hắn mặc bộ quần áo đua xe đạp và bên cạnh là chiếc xe đạp đua đời cũ. Nếu cần, cái mũ bảo hiểm dùng khi đua xe đạp và kính thể thao sẽ che khuôn mặt hắn nếu cảnh sát có tình cờ dùng camera theo dõi đám đông như đôi khi họ vẫn thường làm.
Mọi việc diễn ra quá tốt đẹp, Danko suy nghĩ trong lúc đứng nhìn hiện trường vụ giết người, cả nhà Lightower đã chết, nổ tung thành từng mảnh. Hắn mong họ sẽ phải đau đớn vì bỏng, kể cả bọn trẻ. Đây đã từng là giấc mơ, hay có thể là cơn ác mộng của hắn, nhưng giờ nó đã trở thành hiện thực và sự thực này sẽ làm những người dân lương thiện ở San Francisco phải kinh hoàng. Để tiến hành vụ nổ hắn đã mất nhiều công sức, nhưng cuối cùng hắn đã làm được một điều gì đó. Hãy nhìn những người lính cứu hỏa, cứu thương, cảnh sát. Tất cả bọn họ đều ở đây, để tỏ lòng tôn kính với thành quả của hắn, hay nói đúng hơn là với sự khởi đầu đầy khiêm tốn.
Một người trong số họ bắt gặp ánh mắt của hắn, một phụ nữ tóc vàng, có vẻ là một tay cớm có thế lực. Cô ta có vẻ cũng đã đoán ra điều gì đó. Hắn nhìn cô ta và tự hỏi, không biết liệu cô ta có trở thành kẻ thù của hắn không, và liệu cô ta có đáng thế không?
Hắn hỏi một người cảnh sát tuần tra đứng gần - Người nữ cảnh sát vừa đi vào ngôi nhà là Thanh tra Murphy có phải không? Tôi nghĩ là tôi biết cô ta.
Tay cảnh sát thậm chí còn không thèm nhìn hắn, đúng cái thói láo xược điển hình của bọn cảnh sát. "Không", anh ta nói, "Đó là Trung uý Boxer. Phòng Điều tra các vụ giết người. Nghe nói nó là một con mẹ thật sự hung hăng”.
***

Căn phòng chật chội trên tầng ba của Phòng điều tra các vụ giết người đang rất ồn ào, khác hẳn với bất cứ buổi sáng chủ nhật nào mà tôi biết.
Sau khi khám ở bệnh viện và được chứng nhận là hoàn toàn không hề hấn gì, tôi đến văn phòng và thấy cả đội đã có mặt. Vài manh mối được đưa ra, thậm chí còn trước cả khi có kết quả khám xét hiện trường vụ nổ. Những vụ đánh bom thường không đi đôi với bắt cóc. Hãy tìm cho ra đứa bé, linh tính mách bảo tôi, và từ đó sẽ tìm ra ai là người đã gây ra thảm kịch này.
Tivi bật lên. Thị trưởng Fiske và Thanh tra Tracchio được phỏng vấn trực tiếp tại hiện trường vụ nổ. "Thật là một bi kịch khủng khiếp và đầy hận thù", ngài thị trưởng nói, sau khi vừa đi uống trà sáng ở Olympic về. "Morton và Charlotte Lightower là những người dân cao thượng và hảo tâm nhất thành phố. Họ cũng đã là những người bạn".
- Là những người đã từng quyên góp rất nhiều tiền nữa chứ, Cappy Thomas, đồng sự của Jacobi nói.
- Tôi muốn tất cả mọi người đều biết rằng sở cảnh sát đã bắt đầu hết sức nỗ lực lần theo những dấu vết cụ thể, thị trưởng tiếp tục - Tôi muốn cam đoan với những người dân của thành phố này rằng đây là vụ án hi hữu.
- X/L... Warren Jacobi gãi đầu - Tôi nghĩ là tôi có một ít cổ phiếu trong cái đống c.. mà người ta gọi là quỹ hưu trí của tôi.
- Tôi cũng vậy, Cappy nói. Anh có ở quỹ nào vậy?
- Tôi nghĩ nó được gọi là Quỹ phát triển lâu dài, nhưng cái thằng cha đặt ra cái tên này chắc chắn có một khiếu hài hước lập dị. Chỉ mới hai năm trước tôi có.
- Nếu mấy anh chàng tinh vi bọn anh rỗi một lát, tôi gọi - Hôm nay là chủ nhật và các cửa hàng đều đóng cửa. Ba người bị chết, một đứa bé bị mất tích và nguyên một cái nhà hoàn toàn bị thiêu trụi trong một vụ có thể là đánh bom.
- Chắc chắn là đánh bom, Rick Fiori, phát ngôn viên của Sở cảnh sát xen vào. Anh ta cố chen chân qua cả đống dây dợ lằng nhằng của các phương tiện phát thanh và truyền hình trong quần jeans và đôi giày thể thao, sếp vừa mới nhận được xác nhận từ Đội phá bom. Có dấu vết về máy đặt giờ và chất nổ C-4 ở trên tường.
Tin này không hẳn làm chúng tôi ngạc nhiên. Nhưng sự thật là có một quả bom đã nổ tung trong thành phố của chúng tôi, là những tên giết người đang tự do đi lại ngoài kia với C-4, là một đứa bé 6 tháng tuổi đang mất tích làm chúng tôi chết lặng đi.
- Khỉ ạ, Jacobi thở dài kiểu cách. Buổi chiều hôm nay là thế đấy.
“Trung uý" - có ai đó gọi tôi - Có điện thoại của sếp Tracchio.
- Tôi đã nói rồi mà, Cappy Thomas nói, nhe răng cười.
Tôi nhấc điện thoại, chắc mẩm sẽ nghe quát vì đã rời khỏi hiện trường quá sớm. Tracchio là một người quan liêu nhưng gặp thời. Ông ta chưa từng phải phá một vụ án nào, vụ án duy nhất mà ông ta biết là từ những cuốn sách giáo khoa ở Học viện mà ông ta đã đọc từ 25 năm trước.
- Lindsay à, Cindy đây. Tôi đã chuẩn bị tinh thần để nghe tiếng sếp, giọng nói của cô ấy làm tôi ngạc nhiên - Đừng có cáu. Phải thế này mình mới gọi được cho cậu.
- Cậu gọi không đúng lúc rồi, tôi nói - Mình tưởng là lão Tracchio đang định treo ngược mình lên tường.
- Phần lớn tất cả mọi người đều nghĩ mình là con mụ luôn tìm cách treo ngược họ lên tường.
- Được đấy, tôi nói, lần đầu tiên trong ngày tôi thấy nhẹ nhõm đi một chút.
Ngoài Claire và Jill, Cindy Thomas là một trong số những người bạn thân của tôi. Tình cờ cô ấy cũng viết cho tờ Thời sự và là một trong số những phóng viên viết về tội phạm giỏi nhất của thành phố.
- Chúa ơi, Lindsay, mình vừa mới biết tin. Cả ngày hôm nay mình đi tập yoga. Đang tập thì có điện thoại. Trời ạ, mình chỉ vừa mới biến mất có mấy tiếng đồng mà cậu đã quyết định làm người hùng rồi à? Cậu không sao chứ?
- Phổi mình như bị thiêu bằng lửa...nhưng mình không sao, tôi nói - Mình không có gì để nói cho cậu nghe về vụ nổ trong lúc này cả.
- Mình không gọi cho cậu vì vụ nổ, Lindsay ạ. Mình gọi cho cậu chỉ vì cậu thôi.
- Mình không sao, tôi nhắc lại. Tôi không biết mình có nói thật không, nhưng tôi thấy đôi tay mình vẫn còn đang run lên. Và trong miệng tôi vẫn còn vị đắng của khói từ vụ nổ.
- Cậu muốn mình đến gặp cậu không?
- Cậu không thể đến gần đây được đâu. Tracchio đã cho chặn lại hết cho đến khi tìm được manh mối cụ thể.
- Có phải cậu đang thách mình không? Cindy khúc khích.
Điều đó làm tôi bật cười. Lần đầu tiên khi tôi gặp cô ấy, Cindy đang tìm cách vào trong căn phòng hạng nhất của khách sạn Grand Hyatt, nơi đã diễn ra một trong những vụ giết người và được canh phòng cẩn mật nhất mà tôi có thể nhớ được, cả sự nghiệp của cô ấy thăng tiên nhanh vọt kể từ vụ ấy.
- Không, không phải mình thách cậu đâu, Cindy. Nhưng mình ổn mà. Mình thề đấy.
- Thôi được, thế nếu tất cả những sự lo lắng đầy ủy mị của mình về cậu đều thừa cả thì nói về chuyện vụ án mạng, nó chắc chắn là một vụ án mạng phải không Lindsay?
- Ý cậu muốn hỏi đó có phải là một vụ nổ vì nướng thịt ngoài vườn vào 9h sáng chủ nhật không hả? Ờ, mình nghĩ cậu có thể trích dẫn nguyên văn câu nói vừa rồi của mình đấy. Mình tưởng là cậu không biết gì về vụ này, Cindy ạ. Tôi luôn luôn ngạc nhiên không biết làm thế nào mà cô ấy có thể nhanh đến thế được.
- Giờ mình biết rồi, cô ấy nói - Và sẵn khi đang nói về việc này, nghe nói hôm nay cậu đã cứu một đứa bé. Cậu nên đi về nhà đi. Làm một ngày thế là quá đủ rồi.
- Không được. Đã có một vài manh mối rồi. Rất mong là có thế nói với cậu về chúng nhưng mình không thể.
- Mình nghe nói không tìm thấy bé gái của nhà đấy phải không? Liệu có phải là một vụ bắt cóc không?
- Nếu đúng như thế - tôi nhún vai - Có vẻ như chúng tìm cách đòi tiền chuộc theo một kiểu mới đấy.
Cappy Thomas thò đầu vào. "Trung úy à, bác sĩ khám nghiệm tử thi muốn gặp cô. Dưới nhà xác. Ngay bây giờ".
***

Clair, bác sĩ trưởng của San Krancisco, người bạn thân nhất của tôi trong cả chục năm nay là người nói lên cái điều mà trong tình cảnh điên đảo này làm tôi muốn oà khóc. "Charlotte Lightower có thai".
Clair trông thật buồn rầu và đáng thương trong bộ đồ phẫu thuật mầu cam - Hai tháng. Thật tội nghiệp, có lẽ chính bản thân cô ta cũng không biết điều này.
Tôi không biết tại sao tôi lại buồn đến thế. Có thể bởi vì với tôi điều này làm cho nhà Lightower trở nên giống một gia đình hơn, nhân cách hóa họ hơn.
- Hôm nay mình đã hi vọng sẽ hẹn gặp được cậu. Claire nhìn tôi cười buồn bã. Nhưng mình chẳng tưởng tượng sẽ gặp cậu trong hoàn cảnh này.
- Ừ, tôi cười lại và chùi một giọt nước ở khoé mắt.
- Mình đã được nghe kể về những gì cậu làm, Claire nói. Cô ấy đi tới và vòng tay ôm tôi - Cậu thật can đảm cưng ạ. Nhưng cũng thật ngốc nghếch, cậu biết chứ?
- Đã có lúc mình không biết mình có thế thoát được ra không nữa, Claire ạ. Khói dầy đặc khắp nơi, trong mắt mình, trong phổi mình. Chắng nhìn thấy cái cóc khô gì cả. Mình chỉ biết ôm chặt thằng bé và cầu nguyện.
- Rồi cậu nhìn thấy ánh sáng dẫn cậu ra à? Claire cười.
- Không. Mình chỉ nghĩ các cậu sẽ nghĩ mình là đồ ngu nếu mình không ra được khỏi cái ngôi nhà nóng như lò than ấy.
- Cậu sẽ làm cho những buổi tối liên hoan của mấy đứa bọn mình mất vui, cô ấy gật đầu.
- Mình đã bao giờ nói với cậu — tôi ngẩng đầu và mỉm cười — là cậu luôn biết cách làm cho mọi việc trở nên sáng sủa không?
Thi thể của vợ chồng Lightower nằm trên hai băng chuyền cạnh nhau. Kể cả vào dịp Giáng sinh thì nhà xác cũng là một nơi buồn tẻ, nhưng vào buổi chiều chủ nhật ấy, khi những nhân viên kỹ thuật đã đi về hết, những bức ảnh chụp hình mổ xác và những thiết bị y tế dùng để báo động gắn đầy trên những bức tường khử trùng và một thứ mùi kinh khủng có trong phòng thì tôi càng thấy nơi này ghê sợ hơn bao giờ hết.
Tôi đi tới hai thi thể.
- Thật ra cậu gọi mình xuống đây để làm gì? Tôi hỏi.
- Mình gọi cậu xuống đây vì mình tự nhiên có cảm giác là cậu muốn được ôm chặt vào lòng, cô ấy nói.
- Đúng thế - tôi nói - nhưng mình cũng muốn biết cậu có phát hiện ra điều gì sau khi khám nghiệm tử thi không.
Claire tiến tới cái bàn và bắt đầu tháo găng tay phẫu thuật - Một phát hiện nào ư? - Cô ấy tròn mắt - Liệu mình có thể phát hiện được cái gì cho cậu đây? Cả ba người này đều đã bị nổ tung.
***

Khoảng một tiếng sau, Tracchio và tôi có mặt tại buổi họp báo căng thẳng và xúc động ở ngay trên bậc cầu thang của Toà Thị chính.
Cindy ở đó, cùng với khoảng nửa số phóng viên của thành phố.
Trong văn phòng, Jacobi đang tìm August Spies, cái tên trên bức ảnh qua cơ sở dữ liệu của CCI và FBI. Không thấy gì. Không có ở bất kỳ nơi nào. Cappy đang cố làm tất cả những gì có thể để tìm người giữ trẻ Wendy. Em gái của Lightower đã tả cho chúng tôi nghe về cô ta nhưng chẳng hề chỉ được nơi chúng tôi có thể tìm được cô gái. Thậm chí bà ta còn không hề biết họ của cô ấy.
Tôi lôi danh bạ những trang vàng dày cộp từ trên giá xuống và quăng mạnh xuống bàn Cappy.
- Đây, bắt đầu tìm từ chữ N, chữ cái đầu tiên trong từ người giữ trẻ.
Đã gần 6 giờ chiều chủ nhật. Chúng tôi cho người đến văn phòng của X/L, nhưng điều duy nhất chúng tôi có được là lời hứa của tay phụ trách quan hệ cộng đồng là sẽ gặp chúng tôi vào 8 giờ sáng ngày hôm sau. Chủ nhật là ngày rất tệ hại để phá án.
Jacobi và Cappy gõ cửa phòng tôi.
- Sao cô chưa về? - Cappy hỏi - Chúng tôi sẽ tiếp tục.
- Tôi định gọi cho Charlie Clapper. Đội của anh ta vẫn còn đang tìm kiếm ở hiện trường.
- Tôi nói thật đấy, Lindsay ạ. Để đấy cho chúng tôi. Trông cô như ma ấy, Jacobi nói.
Tự nhiên tôi cảm thấy kiệt sức. Đã chín tiếng đồng hồ kể từ khi ngôi nhà bị nổ. Tôi vẫn mặc nguyên quần áo thể thao và đi giày chạy. Bụi bẩn từ vụ nổ bám đầy khắp người tôi.
- Này Trung uý - Cappy quay trở lại. Tôi chỉ hỏi thêm một điều nữa thôi. Tối hôm qua với Franklin Fratelli thế nào? Một buổi hẹn hò lớn hả?
Họ đứng đó, cười ngoác miệng như hai đứa trẻ đang tuổi dậy thì - Không, tôi nói. Hai anh định hỏi tôi là tay sếp chết tiệt của hai anh có tình cờ biến thành đàn ông không hả?
- Dĩ nhiên là tôi định hỏi rồi - Cappy nói - Và nếu được thì cho tôi nói thêm thay cho thằng khỉ cấp trên của tôi — là cô mặc cái quần bó này trông rất tuyệt. Rằng Fratelli chắc chắn là một thằng điên.
- Tôi nghe thấy rồi - Tôi cười. Tôi đã phải mất rất lâu mới có thể tự tin làm cấp trên của họ. Cả hai đều có thâm niên trong nghề lâu gấp hai lần của tôi. Tôi biết đối với họ thật chẳng dễ chịu gì khi lần đầu tiên trong đời người đứng đầu Phòng điều tra các vụ giết người lại là phụ nữ.
- Jacobi, anh có muốn thêm điều gì nữa không? Tôi hỏi.
- Không hề - Anh ta nhún nhẩy - Tôi chỉ muốn hỏi thêm là ngày mai phải mặc com-lê thắt cravat hay có thể đi giầy thể thao và mặc quần soóc?
Tôi đi qua anh ta, lắc đầu. Rồi tôi lại nghe thấy tên mình một lần nữa - Trung uý?
Tôi quay lại, tò mò - Jacobi?
- Hôm nay cô khá lắm - Anh ta gật đầu. Tất cả mọi người đều ghi nhận điều đó.
***

Chỉ mất 10 phút lái xe là về đến Potrero, nơi tôi sống trong ngôi nhà hai buồng ngủ không có thang máy. Vừa vào cửa, Martha đã ve vẩy đuôi chạy ra. Một người cảnh sát tuần tra đã đưa nó về.
Trên máy điện thoại, đèn nhấp nháy báo hiệu có tin nhắn. Đó là Jill Bernhardt: "Lindsay, mình gọi lên cơ quan cho cậu. Mình vừa biết tin..." và một tin nhắn của Fratelli: "Lindsay này, nếu tối nay em rảnh...". Tôi xóa tin mà không cần nghe hết anh ta định nói gì.
Tôi đi vào buồng ngủ, cởi quần áo. Tối nay tôi không muốn nói chuyện với ai cả. Tôi bật CD. AI Green rồi tôi bước vào bồn tắm và nhấp một ngụm từ chai bia tôi cầm vào. Tôi ngửa người ra sau dưới làn nước ấm, lớp bồ hóng, bụi và mùi khói tróc khỏi người tôi, xoay tròn dưới chân. Có cái gì đó làm tôi muốn khóc.
Tôi cảm thấy thật cô đơn.
Suýt nữa hôm nay tôi đã có thể bỏ mạng.
Tôi ao ước có một vòng tay để tôi lao vào. Claire có Edmund để dỗ dành cô ấy trong những đêm như đêm nay, sau khi cô ấy khám nghiệm ba tử thi cháy thui. Jill có Rick... Thậm chí cả Martha cũng có tôi bên cạnh!
Những ý nghĩ về Raleigh lại quay lại trong tâm trí tôi sau một khoảng thời gian dài. Thật tuyệt vời nếu anh ấy có ở đây tôi hôm nay. Đã tám tháng rồi kể từ ngày anh ấy chết. Tôi đã sẵn sàng đi tiếp, đón nhận một ai đó tình cờ xuất hiện. Nhưng không có ai cả. Chỉ có tiếng nói trong trái tim tôi, tiếng nói của tôi báo đã đến giờ.
Rồi tâm trí tôi quay trở lại cảnh tượng ở Marina. Tôi thấy mình đang đứng trên phố, ôm chặt Martha. Buổi sáng đẹp trời, yên ả; ngôi nhà, thằng bé tóc đỏ đang đi bàn trượt Razor. Đèn giao thông chuyển sang màu vàng.
Tôi cứ quay đi quay lại đoạn này, và luôn kết thúc ở một điểm.
Có một điều mày không nhìn thấy. Một điều mà tôi đã loại bỏ.
Người phụ nữ đi khuất sau góc phố ngay trước khi đèn chuyển sang màu vàng. Tôi chỉ thoáng nhìn thấy phía sau lưng cô ta. Tóc vàng, buộc đuôi ngựa. Có một cái gì đó trong tay cô ta. Nhưng đó không phải là điều làm tôi phải suy nghĩ.
Điều làm tôi suy nghĩ là cô ta không hề quay lại.
Trước đây tôi chưa bao giờ nghĩ tới điều này. Sau vụ nổ.... Thằng bé đi bàn trượt có ở đó. Rất nhiều người khác. Nhưng cô gái tóc vàng không có ở đó. Không ai phỏng vấn cô ta. Cô ta không quay trở lại... Tại sao?
Bỏi vì cô ta đang chạy trốn.
Khoảnh khắc đó cứ quay đi quay lại trong đầu, cô ta đang cầm vật gì đó trong tay và đang chạy trốn. Đó chính là người giữ trẻ.
Vá cái bọc trên tay cô ta?
Đó chính là đứa bé nhà Lightower!
***

Từng lọn tóc dày, vàng óng rơi xuống sàn nhà tắm. Cô lại cầm lấy cái kéo và tiếp tục cắt. Từ bây giờ, tất cả phải bắt đầu lại từ đầu. Wendy không còn nữa. Một khuôn mặt mới bắt đầu hiện lên trong gương khi cô nói lời vĩnh biệt với vai trò người giữ trẻ mà cô đã từng làm trong năm tháng vừa qua.
Cắt bỏ quá khứ. Wendy là cái tên dành cho Peter Pan chứ không phải là cho thế giới thực.
Đứa bé đang khóc trong buồng ngủ - Khẽ chứ, Caitlin. Cô xin cưng.
Cô phải tìm cho mình một lối thoát. Cô chỉ biết là cô không thể để đứa bé chết. Cô đã nghe tin tức cả chiều nay. Cả thế giới đang tìm cô. Họ gọi cô là kẻ giết người không ghê tay. Một quái vật. Nhưng có phải vậy không? Không, vì cô đã cứu đứa bé.
- Cháu không nghĩ cô là một quái vật chứ hả Caitlin? - cô nói với đứa trẻ đang khóc lặng.
Michelle cúi đầu xuống bồn nước và đổ lọ thuốc nhuộm tóc L’Oréal màu đỏ khắp đầu, xoa lên mái tóc ngắn.
Wendy, cô giữ trẻ đã biến mất. Malcolm có thể tới đây bất cứ lúc nào. Họ đã nhất trí sẽ không gặp nhau cho tới khi chắc chắn là Wendy không bị truy đuổi. Nhưng cô cần anh ta. Nhất là lúc này, khi cô đã chứng minh mình là ai.
Tim cô thót lại khi nghe thấy tiếng lạch cạch ở cửa trước.
Nhỡ cô đã không cẩn thận? Nhỡ có ai nhìn thấy cô quay về với đứa bé? Có thể họ đang đạp tung cánh cửa!
Malcolm bước vào phòng - Em tưởng là bọn cớm phải không? Anh đã bảo em là chúng nó ngu lắm! - Hắn nói.
Michelle chạy lại phía hắn và lao vào vòng tay của hắn.
- Ôi Mal, chúng mình đã thành công rồi, thành công rồi. Cô hôn khuôn mặt hắn cả trăm lần - Em đã làm đúng, phải không? Cô hỏi - Trên tivi họ bảo bất cứ kẻ nào đã làm điều này là một con quái vật.
- Anh đã nói rồi, em phải mạnh mẽ lên Michelle. Mal giật tóc cô - Bọn trên tivi nó được trả tiền và bị mua chuộc hết rồi, cũng giống những đứa khác thôi. Nhưng trông em này... em nom khác quá.
Bỗng có tiếng khóc từ phía buồng ngủ. Mal giật khẩu súng từ thắt lưng ra. Cái quái gì thế?
Cô chạy theo sau hắn vào buồng ngủ. Hắn nhìn trừng trừng một cách khiếp đảm vào Caitlin.
- Mal, chúng ta có thể giữ nó, chỉ một thời gian thôi. Em sẽ chăm sóc nó. Nó chẳng làm gì xấu cả.
- Đồ ngu, hắn nói và đẩy cô ngã xuống giường. Bất cứ thằng cớm nào trong thành phố cũng sẽ tìm con ranh này.
Cô bắt đầu thấy hơi thở của mình đặc lại. Cô luôn như vậy mỗi khi Mal xẵng giọng. Cô dò dẫm xung quanh tìm cái túi để lấy bình xịt cho người bị hen suyễn. Lúc nào nó cũng ở đó. Cô không bao giờ đi đâu mà không có nó. Tối hôm qua cô vẫn còn thấy nó. Thế mà giờ đây nó chạy đi đằng quái nào rồi?
- Em đã từng chăm sóc nó, Malcolm, Michelle lại nói. Em nghĩ anh sẽ hiểu...
Malcolm ấn mặt cô ra trước đứa bé.
- Ờ, được rồi, để tao nói cho mày hiểu...ngày mai đứa bé này phải biến mất. Mày làm cho nó nín đi. Mày cho nó bú, mày đè cái gối lên đầu nó. Sáng ra nó phải biến mất.
***

Charles Danko không tin vào mạo hiểm một cách không cần thiết, hắn cũng tin tưởng một cách kiên quyết là tất cả những người lính đều hy sinh, kể cả bản thân hắn. Hắn luôn luôn nói về cái chân lý: bao giờ cũng còn có người lính khác.
Rồi hắn gọi điện thoại từ trạm điện thoại tự động ở quận Mission. Nếu cuộc gọi bị gián đoạn hoặc bị phát hiện thì cũng chẳng vấn đề gì.
Chuông đổ vài lần mới có người nhấc máy ở đầu dây bên kia. Hắn nhận ra giọng nói của Michelle, người giữ trẻ tàn nhẫn đến tuyệt vời. Cô ta đã thủ vai thật khá.
- Anh thật hãnh diện về em, Michelle ạ. Đừng nói gì. Gọi Malcolm cho anh. Nhưng em đúng là một anh hùng.
Michelle bỏ điện thoại xuống và Danko phải cố lắm mới khỏi phá lên cười vì họ đã nghe lệnh của hắn một cách vô điều kiện.
Hoàn toàn chẳng tốn kém chút nào cả và lại nói lên được bao nhiêu điều về thân phận con người. Khỉ ạ, thậm chí điều này cũng có thể giải thích được về Hitler hồi ở Munich. Những người rất thông minh, phần lớn còn có bằng thạc sĩ, nhưng họ gần như không hề thắc mắc về những điều mà hắn nói với họ.
- Ờ, tôi đây. Hắn nghe giọng nói bực dọc của Malcolm. Thằng bé này rất thông minh, nhưng nó là một kẻ giết người thật sự, có thể còn là một tên tâm thần, thậm chí có những lúc nó làm Danko phát sợ. - Nghe này. Tôi không muốn nói quá dài qua điện thoại. Tôi chỉ muốn anh cập nhật thông tin - tất cả mọi việc diễn ra hết sức thuận lợi. Không thể mong muốn gì hơn.
Danko dừng lại khoảng vài giây - Hãy tiếp tục hành động - cuối cùng hắn nói.
***

Một biểu tượng khổng lồ hình chữ X và L đan lồng vào nhau đứng trên đỉnh toà nhà kính nằm trên dẻo đất nhô ra ở Vịnh. Cô nhân viên tiếp tân trong trang phục thật đẹp dẫn tôi và Jacobi vào phòng họp. Trên tường, những bài báo và trang bìa của các tạp chí với khuôn mặt sáng láng của Morton Lightower đầy khắp chiều dài của căn phòng. Trang nhất của tạp chí Forbes có dòng chữ: "Liệu có ai ở Silicon Valley chặn được người đàn ông này lại không?"
- Này, cái công ty này kinh doanh gì thế? - Tôi hỏi Jacobi.
- Hệ thống tốc độ cao hay là cái gì đó. Họ chuyển dữ liệu qua Internet. Trước khi tất cả mọi người phát hiện ra là họ chẳng có dữ liệu nào để chuyển qua Internet cả.
Cánh cửa vào phòng họp mở và hai người đàn ông bước vào phòng. Một người có mái tóc muối tiêu và khuôn mặt đỏ ửng trong bộ comlê sang trọng là Luật sư. Người kia trông khắc khổ và hói, mặc chiếc áo len để mở là kỹ thuật viên.
- Chuck Zinn, người đàn ông trong bộ comlê tự giới thiệu, đưa cho Jacobi danh thiếp. Tôi là CLO của XL. Ông là trung uý Boxer?
- Tôi là Trung uý Boxer. Tôi nhìn vào tấm danh thiếp một cách khinh khỉnh - CLO có nghĩa là gì?
- Giám đốc phụ trách các vấn đề liên quan đến luật pháp. Ông ta cúi đầu như có lỗi - Đây là Steve Cates, người đã giúp Mort lập nên công ty này. Khỏi phải nói ông và cô đây cũng biết là ở công ty tất cả chúng tôi đều khiếp đảm đến thế nào. Hai người đàn ông và chúng tôi ngồi xuống quanh chiếc bàn họp - Phần lớn trong số chúng tôi đều biết Mort từ lâu. Steve cùng học với anh ta ở Berkeley. Tôi muốn bắt đầu cuộc nói chuyện của chúng ta với lời hứa là công ty chúng tôi sẽ hoàn toàn cộng tác với phía cảnh sát.
- Đã tìm thấy manh mối nào chưa? - Cates hỏi - Chúng tôi có nghe nói là Caitlin bị mất tích.
- Chúng tôi cố gắng hết sức để có thể tìm thấy cháu bé. Chúng tôi được biết gia đình có thuê một cô giữ trẻ, người này cũng đang mất tích. Liệu các ông có thể giúp gì chúng tôi để có thể tìm đứa bé?
- Tôi nghĩ Helene có thể giúp trong chuyện này. Cô ấy là thư ký của Mort - Cates quay sang nhìn luật sư.
- Tôi nghĩ là được, Zinn viết vào sổ ghi chú.
Chúng tôi bắt đầu bằng những câu hỏi thông thường: Lightower có bị ai đe doạ không? Họ có biết đến bất cứ ai có ý định làm hại ông ta không?
- Không - Steve Cates lắc đầu và liếc nhìn luật sư. Tất nhiên những vấn đề về tài chính của Mort đầy kín các tờ báo, anh ta tiếp tục. Người ta luôn luôn làm to chuyện ở những buổi họp cổ đông. Thanh tra tài chính. Thế đấy, anh chỉ muốn sửa bếp và họ gào lên là anh đang rút ruột của công ty.
Jacobi khịt mũi - Ông nghĩ người ta có bực mình không khi ông ta bán cổ phiếu trị giá 600 triệu đôla trong khi đi nói với tất cả bàn dân thiên hạ là nó đáng giá một tỷ ?
- Chúng tôi không kiểm soát được giá cổ phiếu thưa ông thanh tra, Cates trả lời, rõ ràng là rất khó chịu với câu hỏi.
Một sự im lặng căng thẳng ngập tràn khắp căn phòng.
- Các ông có thể cho chúng tôi bản danh sách những khách hàng của công ty được chứ? - Tôi nói.
- Được - Tay luật sư lại viết thêm một dòng vào trang giấy.
- Và chúng tôi cần kiểm tra máy tính cá nhân của ông ta, e-mail và thư từ. Tôi đánh đòn cuối cùng vào tay luật sư.
Ngòi bút của ông ta không hề chạm giấy - Những thứ ấy là tài sản cá nhân, Trung úy ạ. Tôi nghĩ tôi sẽ phải xem lại một số luật lệ của công ty trước khi có thể đồng ý.
- Tôi tưởng luật lệ ấy do chính ông đề ra, Jacobi nhe răng cười.
- Sếp của các ông vừa bị ám sát, ông Zinn a. Tôi e rằng vấn đề này giờ là của chúng tôi. Có một lá thư được để lại hiện trường - tôi nói và đẩy bản photo sang phía ông ta. Trong bức thư Morton Lightower được nhắc đến như “kẻ thù của nhân loại”. Có một cái tên ở phía dưới — August Spies. Hai ông có biết gì về cái tên này không?
Zinn chớp mắt. Cates thở dài, mắt anh ta bất chợt trống rỗng.
- Có lẽ tôi không cần phải nhắc lại với các ông là chúng tôi đang điều tra một vụ ám sát, tôi nói. Nếu có ai vẫn còn che giấu điều gì thì bây giờ là lúc...
- Không ai che giấu bất cứ điều gì cả, Steve Cates nói một cách kiên quyết.
- Có lẽ bây giờ cô muốn nói chuyện với Helene. Tay giám đốc phụ trách luật dựng tập giấy lên, như thể cuộc gặp đã kết thúc.
- Cái mà tôi muốn là niêm phong văn phòng của Lightower ngay bây giờ. Và tôi muốn được kiểm tra tất cả thư từ. Cả các tài liệu lưu trên máy tính và email.
- Tôi không chắc điều đó có được hay không Trung uý ạ. Zinn dựa lưng vào thành ghế.
- Để tôi nói cho ông nghe điều gì là được, ông Zinn. Tôi nhìn chòng chọc vào khuôn mặt với nụ cười giả tạo của ông ta - Cái được là chúng tôi sẽ quay lại đây sau hai tiếng đồng hồ nữa cùng với lệnh của toà án, và bất cứ tài liệu nào trong máy tính bị xoá đi trong vòng 24 tiếng đồng hồ vừa qua sẽ bị coi là cố tình làm cản trở việc điều tra vụ án. Điều được nữa là bất cứ thứ gì chúng tôi tìm được và có thể gây bất lợi cho X/L sẽ được đưa cho mấy con sói đói tin ở văn phòng của uỷ viên công tố. Những điều tôi vừa nói nghe có được không, ông Zinn?
Steve Cates nghiêng người về phía tay luật sư - Chuck, có lẽ chúng ta nên xem xét lại.
- Tất nhiên chúng ta có thể xem xét lại - Zinn gật đầu.
- Nhưng tôi e rằng hôm nay chúng ta không còn thời gian
nữa. Và các vị chắc có lẽ cũng rất bộn rộn. Vì thế nếu không còn gì nữa — ông ta đứng lên và cười - tôi nghĩ bây giờ chắc hẳn các vị muốn làm việc với Helene.
***

Chưa đầy sáu giây sau khi lao ra khỏi X/L, tôi gọi khẩn cấp cho Jill. Tôi tả lại cho cô ấy nghe về buổi gặp đầy bực dọc vừa rồi.
- Cậu cần lệnh khám nhà của toà án - Jill ngắt lời tôi - để vào được chỗ hồ sơ của Lightower à?
- Đúng rồi, Jill, và tớ cần gấp, trước khi họ cho bọn nhãi ranh bên Arthur Andersen đến để dọn dẹp văn phòng.
- Cậu có gì chứng minh là hồ sơ trong máy tính của Lightower khả nghi không?
- Cứ cho là mình hay nghi ngờ đi Jill, nhưng nếu thằng cha mà tớ nói chuyện cứ như ngồi trên đống lửa ấy thì cái ăng ten cảnh sát đằng sau tai tớ cứ kêu tưng tưng.
- Kêu thế nào hả Lindsay? - Jill rúc rích.
- Kêu tưng tưng, tôi nói kiên quyết hơn - Nào Jill, tớ không có thời gian để đùa đâu.
- Chả lẽ mọi cử động không bình thường của họ đều có nghĩa là họ đang che giấu một điều gì đấy à?
Tôi bắt đầu cảm thấy bực mình - Cậu không có ý định giúp tớ phải không?
- Tớ không thể giúp cậu được, Lindsay. Mà nếu tớ có giúp cậu thì bất cứ thứ gì cậu tìm thấy cũng không thể buộc tội họ được. Này, tớ có thể thử thương lượng với họ xem sao.
- Jill, tớ đang điều tra một vụ ám sát hết sức phức tạp.
- Thế thì nếu tớ là cậu, tớ sẽ thử tìm cách gây áp lực theo đường khác.
- Cậu nói thử xem nào.
Jill cười hô hô - Theo như tớ biết thì cậu có một vài người bạn là phóng viên mà..
- Cậu muốn nói là có thể họ sẽ sẵn sàng hợp tác hơn nếu công ty họ bị bôi nhọ một chút trên trang nhất của tờ Thời sự?
- Đấy, Linds... tôi nghe tiếng Jill khúc khích.
Đột nhiên có tiếng bíp từ di động của tôi.
Cappy Thomas gọi - Trung uý, tôi cần cô quay về căn cứ, có tin khẩn. Chúng tôi đã lần được dấu vết của người giữ trẻ.
***

Hai người đàn bà đang ngồi ở phòng thẩm vấn số 1 khi tôi về. Họ là chủ một công ty tư vấn dịch vụ giữ trẻ, Cappy nói với tôi như vậy. "Trông trẻ là một hạnh phúc!".
- Chúng tôi gọi khi nghe được tin về những gì xảy ra - Linda Ciborne người mặc áo len casơmia mầu hồng giải thích - Chúng tôi giới thiệu Wendy Raymore cho công việc này.
- Cô ấy có vẻ như rất phù hợp với công việc - Cộng sự của bà ta, Judith Hertan xen vào. Judith lôi ra một tập hồ sơ màu vàng và đặt lên bàn. Bên trong là tập đơn xin việc của công ty, một số lá thư đề cử, một thẻ sinh viên của trường Berkeley California với một bức ảnh trên đó.
- Nhà Lightower rất quý cô ta, Linda nói.
Tôi nhìn vào bức ảnh nhỏ với khuôn mặt của Wendy Raymore. Cô ấy có mái tóc vàng và gò má cao, nụ cười rộng rạng rỡ. Tôi lật lại trong trí nhớ hình ảnh trước vụ nổ: cô gái mặc bộ áo liền quần đang đi. Đó có thể là cô ta.
- Chúng tôi lúc nào cũng kiểm tra các cô giữ trẻ rất cẩn thận. Wendy là một cục vàng. Cô ấy rất vui vẻ và hấp
dẫn, một cô gái trẻ dễ mến.
- Và nhà Lightower nói rằng em bé nhà họ rất quấn cô ấy, cộng sự của bà ta nói thêm - Bao giờ chúng tôi cũng kiểm tra.
- Mấy lá thư tiến cử này, các chị cũng kiểm tra chứ?
Judith Herta lúng túng - Có thể chúng tôi đã không kiểm tra tất cả. Tôi đã kiểm tra ở trường để biết chắc là cô ta học tốt. Tất nhiên là chúng tôi có thẻ sinh viên của cô ta.
Tôi dán chặt mắt vào địa chỉ: 17 Đường Pelican, bên kia Vịnh ở Berkeley.
- Tôi nghĩ cô ta nói là cô ta không ở trong ký túc xá - Linda Cliborne nói - Chúng tôi đã gửi cho cô ta giấy xác nhận đến hòm thư ở bưu điện.
Tôi kéo Cappy và Jacobi ra ngoài - Tôi sẽ báo ngay cho sở cảnh sát Berkeley và Tracchio.
- Cô định làm thế nào? Cappy nhìn tôi và tôi biết ý của anh ta là - Cô định tóm con bé bằng cách nào?
Tôi nhìn vào bức ảnh.
- Bằng bất kỳ cách hào, tôi nói.
***

Bốn mươi phút sau chúng tôi đã ở đường Pelican ở Berkeley. Đó là một ngôi nhà tồi tàn màu xanh lơ được xây theo kiểu thời Victory trên một con phố với những ngôi nhà giống nhau và chỉ cách khuôn viên của trường đai học có vài bước chân. Hai chiếc xe tuần tra chắn đường từ hai phía. Một chiếc xe tải của Đội đặc công đậu song song. Tôi không biết những gì sẽ chờ đợi chúng tôi, nhưng tôi không muốn mạo hiểm.
Tất cả chúng tôi đều mặc áo chống đạn. 11 giờ 45. Cảnh sát Berkeley đã đặt cả ngôi nhà trong tầm kiểm soát. Họ nói ngoài một cô gái da đen đeo chiếc balô Berkeley California vừa đi vào nhà cách đây 30 phút thì không có ai khác ra khỏi nhà.
- Hãy đi tìm đứa bé bị mất tích, tôi nói với các đồng nghiệp.
Jacobi, Cappy và tôi bò sau hàng xe đậu trước ngôi nhà. Không có động tĩnh gì bên trong. Chúng tôi biết là nơi này có thể bị đặt mìn.
Hai thanh tra cảnh sát nhẹ nhàng đi tới hiên nhà. Một người trong đội đặc công chờ bên ngoài với chất nổ phòng khi chúng tôi muốn phá cửa. Cảnh tượng yên ắng đến lạ lùng.
Tôi gật đầu - Vào thôi.
- Mở cửa ra! cảnh sát San Francisco đây! - Cappy đập mạnh cửa.
Mắt tôi dán chặt vào cửa sổ để theo dõi bất kỳ động tĩnh nào. Chúng đã từng sử dụng đến bom. Tôi dám chắc chúng sẽ không ngần ngại mở cửa bằng một loạt súng. Nhưng không có gì cả.
Đột nhiên, tôi nghe có tiếng chân người ở bên trong đi về phía cửa, tiếng vặn ổ khóa. Và cửa mở toang, chúng tôi chĩa súng vào bất cứ ai vừa đứng sau cánh cửa.
Cô gái da đen mặc chiếc áo của trường Berkeley mà cảnh sát Berkeley đã thấy đi vào nhà. Cô ta nhìn đội đặc công và hét lên hoảng hốt.
- Wendy Raymore phải không? - Cappy quát, giật mạnh cô ta ra khỏi cửa.
Cô gái không thốt ra được lời nào. Cappy đẩy cô ta về phía người của đội đặc công đang đứng chờ. Cô gái run rẩy chỉ về phía cầu thang - Tôi nghĩ cô ấy đang ở trên kia.
Ba chúng tôi lao vào nhà. Hai phòng ngủ ở tầng trên mở toang và trống không. Không một bóng người. Cuối hành lang, một cánh cửa đóng chặt.
Cappy đập cửa - Wendy Raymore? Cảnh sát San Francisco đây!
Không có tiếng trả lời.
Tôi bắt đầu thấy sôi máu. Cappy nhìn tôi và kiểm tra lại súng. Jacobi cũng ở tư thế sẵn sàng. Tôi gật đầu.
Cappy đạp cửa. Chúng tôi tiến vào, chĩa súng quanh phòng.
Một cô gái mặc áo phông bật dậy. Trông cô ta choáng váng, đôi mắt còn ngái ngủ. Cô ta bắt đầu hét lên: Trời ơi, có chuyện gì thế?
- Wendy Raymore phải không? Cappy chĩa súng vào cô ta.
Khuôn mặt cô gái trắng bệch vì sợ, đôi mắt đảo qua đảo lại.
- Đứa bé đâu? Cappy hét.
Hỏng rồi! Hỏng bét cả rồi, tôi nghĩ.
Cô gái có mái tóc sẫm màu và nước da ngăm đen. Trông cô ta hoàn toàn không giống với những gì mà Dianne đã tả. Hay như trên tấm ảnh trong thẻ sinh viên của Wendy Raymor, cũng không phải là cô gái mà tôi đã thấy vội vã chạy khỏi vụ nổ. Tôi nghĩ tôi đã đoán được có chuyện gì xảy ra. Cô gái này đã đánh mất thẻ hoặc bị mất cắp. Nhưng giờ ai là người đang giữ tấm thẻ?
Tôi buông súng xuống. Chúng tôi đang đứng nhìn một cô gái khác.
- Đây không phải là người giữ trẻ, tôi nói.
***

Lucille Cleamón có 17 phút cho giờ ăn trưa để lau sạch nước sốt cà chua dính trên mặt Marcus, đưa cặp sinh đôi đến nhà trẻ và bắt xe buýt về cơ quan trưởc khi ông Darmon bắt đầu cắt bớt số tiền lương 7,85 đô la một giờ (hay 13 xen một phút).
- Nào, Marcus - cô thở dài nói với đứa con 5 tuổi của mình, đang chìa cái khuôn mặt đầy nước sốt cà chua ra - Hôm nay mẹ không có thời gian đâu. Cô vỗ nhẹ vào chiếc sơmi trắng đã bắt đầu có vệt tay dính sốt cà chua của nó, và khỉ ạ, các vết bẩn không chịu đi.
Cherisse nhướn người lên ghế - Cho con ăn kem đi mẹ.
- Không, không được. Mẹ không có thời gian. Cô nhìn đồng hồ và thấy tim mình như chợt nẩy lên. Trời ơi.
- Nào, con. Lucille nhét suất ăn của chúng vào cái khay - Mẹ phải rửa ráy cho hai đứa thật nhanh.
- Mẹ ơi, đừng, đấy là McSundae mà, Cherisse khóc.
- Con có thể tự mua McSundae hay bất cứ thứ gì con muốn nếu đó là tiền của con. Giờ thì hai đứa đi rửa mặt sạch sẽ đi. Mẹ phải đi rồi.
- Nhưng con sạch mà, Cherisse cãi
Cô kéo hai đứa ra khỏi bàn và vội vàng đi về phía nhà vệ sinh - ừ, nhưng em trai con trông chẳng khác nào vừa đi đánh trận vậy.
Lucille kéo hai đứa dọc hành lang tới nhà vệ sinh. Cô mở cửa nhà vệ sinh nữ. Đây là McDonald. Chẳng ai nói gì đâu. Cô bê Marcus lên trên bàn, thấm ướt cái khăn giấy và bắt đầu lau vết bẩn trên cổ áo nó.
Thằng bé đẩy ra.
- Nào con, con định làm loạn à, con phải nhận lỗi là đã làm bẩn chứ. Cherisse, con muốn đi tiểu à?
- Vâng ạ, con bé trả lời.
Nó là đứa biết giữ vệ sinh hơn. Cả hai đều lên 5 tuổi, nhưng Marcus thậm chí còn gần như không biết kéo khóa quần. Sốt cà chua trên áo có vẻ sạch hơn.
- Cherisse, Lucille hét, con có định leo lên bệ xí ngồi không đấy?
- Con không ngồi được, con bé trả lời
- Không ngồi được? Mẹ không có thời gian đâu nhé, tụt quần xuống và tè đi.
- Không được, mẹ ơi. Mẹ vào đây mà xem.
Lucille thở dài. Bất cứ ai thường nói thời gian luôn đứng về phía bạn chắc chắn chưa từng có con sinh đôi. Cô liếc nhanh vào gương, lại thở dài, chẳng có một giây nào cho bản thân cả. Cô cho Marcus xuống và đi vào chỗ Cherisse.
- Hết kiên nhẫn, cô nói - Nào, con kêu ca cái gì thế?
Con bé nhìn chằm chằm vào toilet.
- Trời ơi, Lucille bàng hoàng.
Trên bệ xí, gói trong một tấm chăn trong cái nôi bằng mây là một đứa bé mới có mấy tháng tuổi.
***

Khi làm công việc này có những lúc mọi việc có vẻ như đều thuận lợi. Tìm thấy đứa bé nhà Lightower ở nhà hàng McDonald làm cho cả toà thị chính như được thở phào một cách nhẹ nhõm đầy biết ơn.
Tôi gọi cho Cindy và nhờ cô ấy một việc. Cô ấy nói hoàn toàn sẵn lòng tạo một chút áp lực lên X/L.
Vừa nói chuyện với Cindy xong, Charlie Clapper gõ cửa phòng tôi - Ngực đẹp nhỉ Boxer.
- Này, kể cả với một gã như anh thì cũng là quá đấy nhé, tôi cười nói.
Clapper cười. Đội của anh ta vừa mất gần một ngày ở chỗ xảy ra vụ nổ. Trông anh ta kiệt sức.
- Đầu tiên là cho đôi mắt của em, cưng ạ, anh ta nói, quay đầu ra hiệu cho tôi đi theo - Cho đôi mắt của em trước, nó đẹp hơn của Tracchio nhiều.
- Em biết em được thế này là nhờ đâu mà.
Charlie đưa tôi xuống văn phòng của anh ta dưới toà thị chính. Niko ở đội phá bom cũng ở dưới đó, đang dựa vào cái ghế tựa bằng gỗ của Charlie và ăn đồ ăn Trung Quốc trong hộp giấy.
- Được rồi, chúng tôi đã chắp nối lại những ý niệm về thiết bị làm nổ - Charlie kéo ghế cho tôi ngồi. Trên một cái biển quảng cáo, có ai đó đã vẽ sơ đồ nhà Lightower - vết tích của C-4 văng khắp nơi. Chỉ cần 2 lạng là đủ làm nổ tung một cái máy bay nhỏ ỏ trên trời, và theo tôi thì với quy mô của vụ nổ lần này lượng C-4 là gấp khoảng 5 lần từng ấy. Người làm việc này đã nhét nó vào đây và đã đặt nó vào một phòng nào đấy - anh ta lôi ra một cái túi thể thao Nike màu đen.
- Làm sao lại phát hiện được điều đó? tôi hỏi.
- Dễ thôi, Clapper cười. Anh ta lôi ra một mảnh nilông có hình logo của Nike - Chúng tôi tìm thấy nó dính trên tường.
- Liệu có dấu vân tay trên cái túi không? tôi hỏi đầy hi vọng.
- Xin lỗi nhé cưng - Clapper cười khúc khích - đây là cái túi.
- Nó được gây nổ bằng một thiết bị khá tinh vi, Niko giải thích - Vụ nổ được điều khiển từ xa. Ngòi nổ được gắn vào điện thoại di động.
- C-4 thường được bán lậu Lindsay à. Chúng ta có thể thử tìm ở những công trình xây dựng bị mất cắp, hoặc các kho thuốc nổ của quân đội bị mất, Charlie Clapper nói.
- Anh có thích các bé gái không, Charlie?
- Bé gái trên 18 tuổi thì thích lắm, Charlie nói, cười ngoác miệng - Để làm gì? Em đang gợi ý đấy à?
Nếu Clapper cao hơn, thon thả hơn và không có gia đình được 30 năm nay rồi thì rất có thể một ngày nào đó tôi cũng bị thuyết phục bởi những lời tán tỉnh của anh ta. Xin lỗi nhé, bé này ít tuổi hơn.
- Em bé nhà Lightower? Charlie nhăn nhó.
Tôi gật đầu - Em muốn anh kiểm tra nó, Charlie ạ - Đứa bé, tấm khăn, cái nôi, bất cứ thứ gì mà anh tìm được.
- Tôi thay tã lần cuối cùng là 30 năm trước - Clapper thở dài, nom có vẻ hơi bực mình - Này tôi gần như đã quên.... Anh ta lôi ra cái túi có mã số đựng các tang chứng từ dưới một chồng giấy ở trên bàn - Có một căn phòng ở cuối hành lang gần phòng trẻ em. Có người đã ngủ ở đấy. Một người hiện vẫn còn sống.
Tôi nghĩ. Đó là người giữ trẻ.
- Cứ bình tĩnh, Charlie nói trước - Tất cả đều đã cháy thành than. Nhưng chúng tôi tìm thấy cái này cạnh giường.
Anh ta ném cho tôi cái túi nilông. Bên trong là một hộp nhỏ méo mó dài khoảng 3 inch.
Tôi cầm nó lên. Chịu không biết nó là thứ gì.
- Tất cả các thứ khác đã chảy ra hết. Clapper nhún vai. Anh ta lần mò trong chiếc áo khoác treo sau lưng ghế và moi ra một cái gì đó trông cũng gần gần như thế.
- Bình xịt cho người bị hen suyễn, Lindsay ạ. Anh ta tháo cái nắp hộp của mình và lắp gọn vào cái hộp lấy ra từ trong cái túi đựng tang vật. Anh ta ấn cái lọ hai lần. Hơi xịt ra không khí.
- Người ngủ trong phòng ấy bị hen.
***

Jill Bernhardt ngồi rất lâu trong phòng làm việc tối om khi tất cả mọi người đã ra về.
Bản tóm tắt hồ sơ của vụ kiện mở ra trước mặt, và cô bất chợt nhận ra rằng cô đã nhìn chằm chằm vào trang giấy đã mười phút rồi. Vào những buổi tối mà Rick không đi vắng hoặc không làm việc muộn, cô đã có thói quen ở lại phòng làm việc. Cô làm tất cả những gì có thể để tránh không phải gặp anh ta. Ngay cả những lúc cô không chuẩn bị cho phiên toà.
Jill Meyer Bernhardt. Một luật sư cực giỏi. Một người luôn đứng đầu.
Cô sợ không dám về nhà.
Cô chậm rãi xoa vết thâm tím trên cột sống, vết thâm mới nhất. Tại sao chuyện này lại xảy ra? Thường thì cô là người đứng ra làm đại diện cho những phụ nữ như thế này, chứ không phải là người che giấu sự thật của chính mình.
Một giọt nước mắt lăn dài xuống má. Đấy là vào lúc mình bị sẩy thai, cô nghĩ. Đó là lúc mà việc này bắt đầu.
Nhưng không, những vấn đề với Rick đã bắt đầu từ trước đó rất lâu, cô biết. Khi cô vừa mới tốt nghiệp trường luật và Rick đang chuẩn bị kết thúc khoá MBA (thạc sĩ quản trị kinh doanh). Nó bắt đầu bằng chuyện chọn quần áo. Những bộ quần áo không hợp mắt anh ta hay những bộ làm lộ những vết sẹo của cô. Những buổi tiệc mà quan điểm của anh ta - về chính trị về công việc của cô, về bất cứ thứ gì - đều có vẻ như quan trọng hơn, có lý hơn những quan điểm của cô. Cô đã tự lừa dối mình là vì anh ta làm ra nhiều tiền hơn để có thể trả tiền nhà.
Không được đâu, Jill. Cô đã nghe thấy điều đó từ lần đầu mới gặp anh ta. Trời ơi, cô lấy tay chạm nhẹ lên mí mắt. Cô là cánh tay phải của ủy viên công tố. Cô còn muốn chứng minh điều gì nữa chứ?
Điện thoại reo. Tiếng chuông đột ngột làm cô giật mình. Liệu có phải là Rick? Chỉ cần nghe giọng nói của anh ta cũng đủ làm cô lộn mửa. Cái giọng nghe thật là quan tâm và lo lắng nhưng khiến cô rùng mình: "Em yêu, em đang làm gì thế? Về nhà đi. Chúng mình sẽ chạy bộ".
May mắn đó là cú điện thoại của văn phòng ủy viên công tố từ Sacramento. Anh ta gọi lại về việc muốn xoá lời khai trước toà trong biên bản tại toà án. Cô chuyển cuộc gọi vào hộp thoại.
Cô đóng bản tóm tắt dày cộp lại. Đây là lần cuối, cô thề. Cô sẽ bắt đầu bằng cách nói với Lindsay. Cô cảm thấy rất khó chịu khi phải giấu cô ấy. Đằng nào thì Lindsay cũng vẫn nghĩ Rick là một thằng đểu. Cô ấy chẳng khờ dại gì.
Trong khi cô nhét các thứ vào trong cặp, chuông điện thoại lại reo. Lần này tiếng chuông đổ rất lạ, nó cứ như cứa ngang cô vậy.
Đừng trả lời, Jill. Cô đã gần ra đến cửa. Nhưng một điều gì đó bắt cô phải nhìn lại màn hình điện thoại. Số điện thoại quen thuộc hiện lên. Cô thấy miệng mình đắng ngắt. Chầm chậm, cô nhấc máy. "Bernhardt đây," cô thì thào, mắt nhắm nghiền.
- Lại làm việc muộn hả em yêu? Giọng nói của Rick như cứa vào tai cô. Nếu anh không biết vậy - anh ta nói, nghe như bị tổn thương - anh sẽ nghĩ là em sợ không dám về nhà.
***

Đêm hôm đó, George Bengosian gặp may.
Vừa lùn vừa hói, lại có một cái mũi to bè, Bengosian nhận thức được từ rất sớm là hắn chẳng hề có khiếu với môn tiết niệu và nhận ra rằng sứ mệnh của hắn là tập hợp những người bán bảo hiểm thất bại thành một tổ chức chăm sóc sức khoẻ khổng lồ. Hắn cũng nhận thức được rằng hắn không phải loại đàn ông có thể quyến rũ được một người phụ nữ đẹp bằng những bản dự báo doanh thu công ty và những câu chuyện tiếu lâm của hắn chắc chắn là không thể quyến rũ được cô gái hấp dẫn làm phân tích hắn gặp tại Hội thảo Ngân hàng Y tế Mỹ.
Chẳng khác nào hắn đang sống trong giấc mơ của một ai đó. Mimi như bị hắn thôi miên, và giờ hắn đang đưa cô vào khách sạn. "Phòng hạng nhất, trên đó cảnh đẹp tuyệt", hắn đùa.
George lặng tìm đường nét chiếc áo lót của cô khi hắn mở cửa phòng, hắn tưởng tượng bộ ngực đầy đặn của cô lắc nhẹ trước mặt, và đôi mắt mơ màng nhìn vào mắt hắn. Có ảnh trên báo cáo tài chính cuối năm chỉ là để được thế này thôi mà.
- Chờ em một lát, Mimi nói, khẽ véo nhẹ vào cánh tay hắn và đi vào nhà vệ sinh.
- Đừng lâu quá nhé, George bĩu môi.
Luống cuống, hắn xé toạc lớp giấy gói chai rượu Roederer, được biếu không cho khách dùng phòng ở tầng thượng và rót vào hai cái ly. Cái dụng cụ đã 54 tuổi của hắn đụng đậy trong quần chẳng khác nào một con cá nằm trong lưới. Sáng ngày mai hắn sẽ bay tới Illinois tham dự một cuộc họp với Uỷ ban Y tế, mà hắn đã biết trước là sẽ diễn ra theo chiều hướng hoàn toàn khác kể từ sau khi hắn đã bỏ những khách hàng nghèo và có nguy cơ sẽ đòi tiền bảo hiểm nhiều nhất khỏi danh sách. 140 nghìn gia đình sẽ bị loại ra ngoài, và điều này sẽ làm cho lợi nhuận tăng lên.
Mimi đã quay trở ra, trông cô ta đẹp hơn bất cứ lúc nào. George đưa cho cô cái cốc.
- Uống mừng em, hắn nói - Thực ra thì uống mừng cả hai chúng ta. Uống mừng đêm nay.
- Uống mừng Hopewell - Mimi cười rạng rỡ và cụng ly - Này anh có muốn thử cái này không? Cô đưa tay nắm cổ tay hắn - Cái này sẽ đảm bảo cho những dự báo doanh thu của anh rắn như đá vậy. Cô lôi một cái lọ nhỏ ra khỏi túi - Anh thè lưỡi ra.
George làm như cô nói, và cô nhỏ xuống hai giọt.
Đắng. Vị thật sắc, nó gần như làm hắn giật nẩy người - Sao người ta không làm cái này với vị anh đào nhỉ?
- Một giọt nữa nào. Nụ cười của cô thật quyến rũ - Để em biết chắc là anh đã sẵn sàng cho em. Cho chúng ta.
George lại thè lưỡi ra. Con tim hắn đập loạn xạ.
Mimi nhỏ thêm một giọt nữa. Rồi nụ cười của cô thay đổi, lạnh lùng hơn. Cô túm lấy má hắn, dốc tuột cả cái lọ xuống.
Miệng George đầy cái thứ dung dịch đó. Hắn cố nhổ ra, nhưng cô kéo giật đầu hắn ra phía sau và hắn nuốt. Hắn tròn mắt - Cái quái gì thế?
- Nó độc đấy, Mimi nói, nhét cái lọ vào trong túi - Một chất độc rất đặc biệt cho một người rất đăc biệt. Giọt đầu tiên đủ để giết chết ông chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ. Ông vừa nuốt một lượng đủ đế đầu độc cả thành phố San Francisco.
Cốc sâmpanh của George rơi xuống vỡ tan tành trên sàn nhà. Hắn cố nhổ cái dung dịch ở trong bụng ra. Con đĩ này điên rồi. Chắc chắn nó đang lừa hắn. Nhưng rồi một cơn đau quặn lên trong bụng hắn.
- Đây là của tất cả những người mà ông đã từng làm hại trong suốt cuộc đời, ông Bengosian ạ. Ông chưa từng gặp họ, đó là những gia đình không còn lựa chọn nào khác mà chỉ biết trông chờ vào ông. Trông chờ vào Hopewell. Felicia Brown ư? Cô ấy đã chết vì một khối u mà đáng lẽ ra có thể chữa lành. Thomas Ortiz? Cái tên nghe như tiếng chuông ấy nhỉ? Nó sẽ kêu như chuông với nhóm quản lý rủi ro của ông. Anh ấy đã tự bắn mình vì đã cố trả tiền chữa bệnh ung thư não cho đứa con trai. Chúng ta gọi cái đó là “rửa sạch két”. Có đúng là ông gọi nó như thế không, ông B?
Đột ngột bụng hắn quặn lên. Bọt sùi lên miệng hắn.
Hắn nhổ ra đầy áo, nhưng như có những móng vuốt sắc nhọn đang cào vào ruột gan hắn. Hắn biết chuyện gì đang xảy ra. Phổi hắn đang bị phù. Các bộ phận bắt đầu tê liệt. Hãy hét lên kêu cứu, hắn tự bảo bản thân mình. Ra cửa đi. Nhưng chân hắn kiệt sức và hắn quỵ xuống.
Mimi đang đứng đó, nhìn hắn với nụ cười ngạo nghễ. Hắn cố đi về phía cô. Hắn muốn đánh cô ta, bóp cổ, giết chết cô. Nhưng hắn không cử động được.
- Xin em... Đây không phải là trò đùa.
Cô quỳ xuống trước hắn - Cái cảm giác két đã được rửa sạch thế nào hả ông Bengosian? Giờ hãy ngoan ngoãn mở miệng ra một lần nữa. Mở ra!
Bằng hết sức bình sinh, George cố hít không khí vào phổi, nhưng không được. Miệng hắn há hốc. Lưỡi hắn phình lên một cách quái dị. Mimi giữ một tờ giấy mầu xanh ở trước mặt hắn. Ít nhất thì hắn cũng nghĩ là nó có màu xanh, nhưng mắt hắn bị khúc xạ, đờ đẫn và không nhận biết màu sắc. Hắn nhìn thấy mờ mờ hình cái biểu tượng của Hopewell.
Cô ta vo tờ giấy lại và nhét vào miệng hắn - Cảm ơn đã đến với Hopewell, nhưng như trên tờ đơn đã viết, không được bảo hiểm!
***

Di động của tôi reo.
Vẫn đang đêm. Tôi bật dậy và liếc nhìn đồng hồ. Khỉ thật, mới 4 giờ sáng.
Loạng choạng, tôi dò dẫm tìm điện thoại, cố nhìn số máy hiện trên màn hình. Của Paul Chin - Này Paul, có chuyện gì thế? tôi lẩm bẩm.
- Xin lỗi Trung uý, tôi đang ở dưới khách sạn Clift. Tôi nghĩ cô nên xuống đây.
- Anh tìm thấy gì à? Một câu hỏi lúc 4 giờ sáng. Những cú điện thoại lúc 4 giờ sáng chỉ có một nghĩa.
- Ờ! tôi nghĩ là vụ nổ ở nhà Lightower có vẻ phức tạp hơn đấy.
Tám phút sau - khi đã mặc quần bờ và áo ba lỗ, cào vài nhát lược lên tóc, tôi ngồi vào chiếc Explorer, phóng trên đường Vermont xuống Seventh, chạy vụt trong bóng đêm tĩnh lặng.
Ba chiếc xe cảnh sát cùng với một chiếc xe của nhà xác đang đỗ trước lôi vào mới keng của khách sạn. Cliít là một trong những khách sạn cũ tuyệt vời của San Francisco mới được tu bổ lại. Tôi giơ phù hiệu đi qua toán cảnh sát ở trước cửa, trố mắt nhìn cái ghế dài xa xỉ bọc da đà điểu và đôi sừng bò treo trên tường, một vài nhân viên khách sạn đang đứng xung quanh sững sờ, không biết phải làm gì. Tôi đi thang máy lên tầng trên, nơi Chin đang đợi.
- Tên của nạn nhân là George Bengosian. Một nhân vật rất quan trọng trong ngành y tế - Paul Chin giải thích trong lúc dẫn tôi vào phòng - Cô hãy chuẩn bị tinh thần nhé, tôi không đùa đâu.
Tôi nhìn vào thi thể được dựng vào chân bàn hội nghị ở trong căn phòng được bài trí một cách xa hoa.
Màu da của Bengosian đã biến sang một màu vàng xanh vì lượng oxy-huyết bị giảm. Mắt ông ta mở một cách méo mó như hai cái hố. Một thứ nước nhầy nhầy đặc sệt màu vàng chảy ra từ mũi ông ta và đông cứng lại một cách kỳ dị ở dưới cằm.
- Ông ta đã làm cái quái gì thế? - tôi lẩm bẩm nói với người nhân viên khám nghiệm tử thi đang cúi xuống ông ta - Ông ta vừa chiến đấu một mất một còn với người hành tinh khác à?
- Nom anh ta hoang mang hết sức - Tôi hoàn toàn chịu đấy.
- Anh có chắc đây là một vụ ám sát không? - Tôi quay sang Chin. - Có ai đó gọi cho lễ tân khách sạn lúc 2 giờ 45 phút sáng, anh ta nhún vai - gọi từ ngoài khách sạn. Nói rằng ở phòng trên tầng thượng có rác cần phải thu dọn.
- Nghe có vẻ đúng đấy, tôi khịt mũi.
- Đấy và cái này nữa, Chin nói, lôi ra một mảnh giấy vo tròn anh ta cầm qua lớp găng tay cao su - tôi tìm thấy trong miệng ông ta.
Trông nó giống như một tờ đơn.
Có biểu tượng màu trắng in nổi: Bảo hiểm y - Hopewell.
Đó là một bản tường trình phúc lợi y tế. Một số chỗ trông trong tờ đơn đã được điền. Đọc nó, sống lưng tôi bắt đầu ớn lạnh.
"Chúng tôi tuyên chiến với những kẻ tham lam và tham nhũng trong xã hội chúng ta. Chúng ta không thể ngồi nhìn và dung túng những kẻ đầy quyền thế, những kẻ chỉ vì là con ông cháu cha mà vênh váo ních đầy túi bằng cách bóc lột những người yếm thế, bị áp bức và nghèo đói. Thời đại của nạn phân biệt kinh tế đã chấm dứt. Chúng ta sẽ tìm ra bọn chúng, bất kể nhà của chúng có to đến đâu, các luật sư của chúng có tài giỏi đến đâu. Chúng ta ở trong nhà của chúng, ở nơi chúng làm việc. Chúng tôi tuyên bố, cuộc chiến không ở đâu xa mà ở ngay tại đây. Nó là cuộc chiến của chúng ta. Chúng tôi tuyên chiến!"
Khỉ thật. Tôi nhìn Chin. Đây không phải là một vụ ám sát. Đây là bản án tử hình. Một sự tuyên chiến. Anh ta đã nói đúng, vụ nổ của nhà Lightower đã trở nên phức tạp hơn rất nhiều.
Dưới mảnh giấy ký tên: August Spies.

Chương sau