Cái ghế trống - Chương 35

Cái ghế trống - Chương 35

Cái ghế trống
Chương 35

Ngày đăng
Tổng cộng 46 hồi
Đánh giá 9.7/10 với 51399 lượt xem

Nỗi lo lắng của anh bây giờ là cô sẽ có hành động dại dột đối với bản thân mình. Kể từ khi biết Amelia Sachs, Rhyme đã chứng kiến những lần hai bàn tay cô cào đầu đến tóe máu. Anh đã chứng kiến mỗi lúc căng thẳng cô lại gặm nát móng tay hoặc bấu sâu móng tay vào da thịt. Anh đã chứng kiến cô lái xe với tốc độ một trăm năm mươi dặm một giờ. Anh không biết chính xác cái gì thúc đẩy cô, nhưng anh biết có cái gì đó trong lòng cô khiến Amelia Sachs hay bị kích động.
Bây giờ khi chuyện như thế này xảy ra, bây giờ cô đã gây chết người, sự bối rối có thể khiến cô vượt quá ngưỡng chịu đựng. Sau vụ tai nạn biến Rhyme thành một người đàn ông tàn tật, Terry Dobyns, chuyên gia tâm lý của Sở Cảnh sát New York, đã giải thích với anh rằng, đúng, anh sẽ cảm thấy muốn tự sát. Nhưng không phải sự chán nản thúc đẩy anh hành động. Vì sự chán nản làm cạn kiệt sức lực của anh. Nguyên nhân chính để anh muốn tự sát là sự hỗn hợp các cảm giác tuyệt vọng, hoang mang, bối rối.
Đấy chính xác là tâm trạng mà Amelia Sachs – bị săn đuổi, bị phản bội bởi chính bản chất của mình - ngay lúc này đây đang cảm thấy.
Tìm ra cô ấy! Là ý nghĩ duy nhất của Rhyme. Phải nhanh chóng tìm ra cô ấy.
Nhưng Sachs đang ở đâu? Rhyme vẫn chưa có câu trả lời cho câu hỏi ấy.
Anh lại nhìn bằng chứng cứ. Đã không phát hiện được chứng cứ nào từ ngôi nhà lưu động. Lucy và hai đồng sự đã lục soát nó vội vàng – quá vội vàng, tất nhiên. Họ đang trong tâm trạng chỉ muốn săn đuổi – thậm chí đến Rhyme chẳng động đậy nổi người cũng còn thường xuyên cảm thấy điều này – và nhóm cảnh sát chỉ muốn ngay tức khắc lần theo dấu vết kẻ thù vừa giết chết bạn họ.
Những manh mối duy nhất mà Rhyme có về nơi giam giữ Mary Beth – về nơi Garrett và Sachs bây giờ đang nhắm tới - ở ngay trước mắt anh. Nhưng chúng khó hiểu chẳng kém bất cứ manh mối nào anh từng phân tích.
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP - CỐI XAY
Sơn nâu dây trên quần
Cây gọng vó
Đất sét
Rêu nước
Nước trái cây
Sợi giấy
Viên chua làm mồi câu
Đường
Camphene
Chất cồn
Dầu hỏa
Men nở
Chúng ta cần thêm chứng cứ! Rhyme nổi khùng lên với chính mình.
Nhưng chúng ta không có thêm được bất cứ một mẩu chứng cứ chết tiệt nào.
Sau vụ tai nạn, khi nỗi đau khổ của Rhyme đang còn ở giai đoạn phủ nhận thực tế, anh đã cố gắng tập trung sức mạnh ý chí siêu nhiên để khiến cho cơ thể cử động. Anh đã nhớ lại các câu chuyện về việc người ta có thể nâng ô tô lên hay có thể chạy với tốc độ không thể tưởng tượng nổi nhằm tìm kiếm sự giúp đỡ trong trường hợp khẩn cấp. Nhưng rốt cuộc anh cũng đành phải chấp nhận rằng những kiểu sức mạnh ấy đã vĩnh viễn rời xa anh.
Tuy nhiên, anh vẫn còn một kiểu sức mạnh khác – sức mạnh trí óc.
Hãy tư duy đi! Tất cả những gì mày có là bộ não của mày và các chứng cứ đang ở trước mày kia. Các chứng cứ đó sẽ không thay đổi.
Bởi vậy, hãy thay đổi cách mày tư duy.
Được rồi, hãy bắt đầu lại. Rhyme đọc bảng chứng cứ lần nữa. Chìa khóa mở cửa ngôi nhà lưu động đã được xác định. Men nở là từ cối xay. Đường là từ thức ăn hoặc nước trái cây. Camphene là từ một chiếc đèn đốt cổ. Vết sơn là từ nơi cô gái đang bị giam giữ. Dầu hỏa là từ con thuyền. Chất cồn có thể là từ bất cứ cái gì. Chỗ đất trong gấu quần gã trai thì sao? Nó không bộc lộ đặc điểm riêng biệt nào và…
Hẵng hượm…chỗ đất.
Rhyme nhớ ra rằng sáng hôm qua anh và Ben đã làm xét nghiệm đối với các mẫu đất lấy từ giày và thảm trải sàn xe của nhân viên làm việc tại trụ sở chính quyền quận. Anh đã yêu cầu Thom chụp từng ống nghiệm và ghi đằng sau mỗi bức ảnh tên nhân viên.
“Ben?”
“Gì ạ?”
“Đem thử tỷ trọng đống đất cát cậu rũ ra được từ gấu chiếc quần Garrett bỏ lại chỗ cối xay.”
Sau khi đất cát đã lắng xuống đáy ống nghiệm, chàng thanh niên nói: “Có kết quả rồi ạ”.
“So sánh nó với ảnh chụp các mẫu cậu làm sáng hôm qua.”
“Hay, hay.” Nhà động vật học trẻ tuổi gật đầu, cảm thấy ấn tượng trước ý tưởng Rhyme đưa ra. Anh ta lật các bức ảnh, dừng lại. “Tôi đã tìm thấy một bức phù hợp!”, anh ta nói. “Gần như y hệt.”
Nhà động vật học chẳng còn do dự khi phát biểu ý kiến nữa, Rhyme hài lòng để ý thấy như thế. Và anh ta cũng chẳng còn kiểu nói loanh qua loanh quanh.
“Từ giày của ai vậy?”
Ben xem ghi chú đằng sau bức anh. “Frank Heller. Anh ta làm việc tại bộ phận Các Công trình Công cộng.”
“Anh ta đã đến chưa?”
“Tôi sẽ đi hỏi.” Ben biến mất. Vài phút sau, anh ta quay lại, đi cùng là một người đàn ông dáng to ngang mặc sơ mi cộc tay màu trắng. Anh ta do dự nhìn Rhyme. “Ông là cái người hôm qua yêu cầu chúng tôi cậy đất từ giày ra.” Anh ta cười nhưng tiếng cười không được thoải mái.
“Frank, chúng tôi lại cần anh giúp đỡ”, Rhyme giải thích. “Đất từ giày của anh phù hợp với đất chúng tôi tìm thấy trên quần áo của đối tượng.”
“Thằng nhãi đã bắt cóc hai cô gái ấy à?”, Frank lẩm bẩm, mặt đỏ lên và trông đầy vẻ tội lỗi.
“Đúng vây. Nghĩa là hắn có thể - điều này chưa chắc chắn mấy, tuy nhiên hắn có thể - đang giữ cô gái cách nơi anh sống hai hoặc ba dặm. Anh hãy làm ơn chỉ trên bản đồ chính xác nơi anh sống.”
“Không phải tôi sẽ trở thành đối tượng tình nghi hay đại loại như thế chứ?”
“Không, Frank. Hoàn toàn không.”
“Vì sẽ có người xác nhận cho tôi. Buổi tối nào tôi cũng ở nhà với vợ. Chúng tôi xem ti vi. Các chương trình Jeoprady và Bánh xe May mắn[37]. Đúng giờ như đồng hồ vậy. Tiếp theo là đấu vật giải trí. Thi thoảng ông anh trai vợ tôi tới chơi. Ý tôi là anh ấy nợ tôi tiền nhưng nếu anh ấy chẳng nợ thì anh ấy cũng sẽ xác nhận cho tôi.”
“Không sao đâu mà”, Ben trấn an Frank. “Chúng tôi chỉ cần biết nơi anh sống. Trên tấm bản đồ kia kìa.”
“Đây... Frank bước tới trước bức tường và đặt tay vào một điểm. Ô D-3. Nó ở phía bắc sông Paquenoke – phía bắc ngôi nhà lưu động nơi Jesse đã bị bắn chết. Có một số con đường nhỏ trong khu vực này, tuy nhiên không có thị trấn nào được đánh dấu.
“Xung quanh nơi anh sống ra sao?”
“Chủ yếu là rừng và các cánh đồng cỏ.”
“Anh có biết chỗ nào mà người ta có thể giấu một nạn nhân bị bắt cóc không?”
Frank xem chừng nghiêm chừng nghiêm túc cân nhắc câu trả lời. “Không, tôi không biết.”
Rhyme nói: “Tôi hỏi anh một câu được không?”
“Cộng thêm vào những câu ông đã hỏi?”
“Đúng vậy.”
“Tôi nghĩ là được.”
“Anh biết về những cái vũng Carolina chứ?”
“Tất nhiên. Mọi người đều biết mà. Các tảng thiên thạch rơi xuống đã tạo ra chúng. Từ lâu rồi. Từ khi lũ khủng long bị tuyệt diệt.”
“Có cái vũng nào ở gần nơi anh sống không?”
“Ồ, có chứ, chắc chắn rồi.”
Rhyme đã hy vọng anh ta sẽ nói như thế.
Frank tiếp tục: “Phải có đến gần trăm cái”.
Rhyme đã hy vọng anh ta đừng nói như thế.
Đầu ngả ra đằng sau, mắt nhắm nghiền, anh đang thầm xem xét lại các bảng chứng cứ.
Jim Bell và Mason quay lại, cùng với Thom và Ben, nhưng Rhyme không chú ý gì đến họ. Anh đang ở trong thế giới riêng của mình, một thế giới trật tự của khoa học, bằng chứng, logic, một thế giới nơi anh không cần phải vận động, một thế giới nơi may mắn thay những tình cảm anh dành cho Amelia và những gì cô đã làm không được phép bước vào. Các chứng cứ hiện lên trong đầu óc anh rõ ràng y như anh đang đăm đăm nhìn lên tấm bảng viết phấn. Thực tế, khi nhắm mắt, anh còn có thể nhìn nhận chúng rõ rãng hơn.
Sơn đường men nở đất camphene sơn đất đường...men nở...men nở...
Một ý nghĩ lướt qua tâm trí Rhyme, rồi chuồi đi mất. Quay lại nào, quay lại nào, quay lại nào...
Đây rồi! Anh đã chộp được nó.
Rhyme mở choàng mắt. Anh nhìn vào cái góc trống của căn phòng. Bell nhìn theo anh.
“Gì thế, Lincoln?”
“Anh có máy pha cà phê ở đây chứ?”
“Cà phê à?”, Thom hỏi, vẻ không hài lòng. “Không caffeine đâu nhé. Huyết áp của anh đang...”
“Không. Tôi không muốn uống cà phê cà phiếc gì hết. Tôi muốn một cái phin lọc cà phê.”
“Phin lọc? Tôi sẽ lấy một cái cho anh.” Bell rời khỏi phòng và lát sau quay lại.
“Đưa nó cho Ben” Rhyme yêu cầu. Rồi anh bảo nhà động vật học: “Hãy xem những sợi giấy từ cái phin lọc này có phù hợp với những sợi giấy chúng ta đã tìm thấy trên quần áo của Garrett bị bỏ lại chỗ cối xay không”.
Ben chà cho một ít sợi giấy từ cái phin lọc rơi xuống phiến kính. Anh ta chăm chú soi qua thấu kính của chiếc kính hiển vi đối chiếu, điều chỉnh tiêu cự rồi di chuyển bệ kính hiển vi để hai mẫu sát lại bên cạnh nhau trong khung ngắm được chia đôi.
“Màu sắc thì hơi khác, Lincoln, nhưng cấu tạo và kích thước gần như y hệt.”
“Tốt” Rhyme nói, ánh mắt anh bây giờ đặt vào chiếc áo phông dây nước trái cây.
Anh bảo Ben: “Vết nước trái cây, vết nước trái cây trên chiếc áo phông ấy. Hãy nếm lại xem. Nó có hơi chua không? Hay chát?”.
Ben nếm. “Có lẽ là hơi chát. Khó nói được chắc chắn.”
Ánh mắt Rhyme chuyển sang tấm bản đồ, hình dung ra Lucy và hai đồng sự của cô đang sắp sửa đuổi kịp Sachs ở chỗ nào đâu đó giữa bạt ngàn cây cối hoang dã, súng nhăm nhăm nhả đạn. Hoặc Garrett đã lấy được súng của Sachs và biết đâu đang chĩa nó vào cô.
Hoặc cô đang gí súng vào chính đầu mình, siết cò.
“Jim”. Rhyme nói. “Tôi cần anh lấy cái này cho tôi. Để làm mẫu chứng.”
“Được. Ở chỗ nào vậy?” Bell lục túi quần tìm chùm chìa khóa.
“Ồ, anh chẳng cần đi xe đâu.”
Rất nhiều hình ảnh quay cuồng trong tâm trí Lucy: Jesse Corn ngày đầu tiên đến làm việc tại văn phòng cảnh sát trưởng, giày đồng phục đánh xi bóng loáng nhưng bít tất lại cọc cạch, vì anh đã mặc quần áo từ trước khi trời sáng để chắc chắn không bị muộn giờ.
Jesse Corn, ngồi xổm đằng đuôi một chiếc xuồng máy, vai chạm vai cô, trong lúc Barton Snell – nhăm nhăm khẩu súng hơi – bắn bừa bãi vào mấy người cảnh sát. Chính nhờ sự hài hước nhẹ nhàng của Jesse mà cái gã to xác ấy chịu hạ khẩu Winschester xuống.
Jesse Corn, tự hào lái chiếc xe tải cỡ nhỏ mới tậu màu đỏ tươi đến trụ sở chính quyền quận vào ngày được nghỉ làm và cho đám trẻ con leo lên thùng xe, chạy tới chạy lui khắp bãi đỗ. Đám trẻ đồng thanh hét “Êêêêê” mỗi lần anh phi xe qua các con lươn giảm tốc.
Những hình ảnh này – và hàng chục hình ảnh khác – cứ ám ảnh Lucy trong lúc cô, Ned và Trey băng ngang một cánh rừng sồi lớn. Jim Bell đã bảo họ chờ ở chỗ ngôi nhà lưu động để anh ta cử Steve Farr, Frank và Mason đến, tiếp tục truy đuổi. Anh ta muốn cô và hai người kia quay lại văn phòng. Nhưng họ thậm chí không mất công biểu quyết cho vấn đề đó. Thành kính hết mức có thể, họ đưa xác Jesse vào bên trong ngôi nhà, lấy tấm vải phủ lên. Rồi cô nói với Jim rằng họ sẽ bám theo hai kẻ chạy trốn và chẳng có gì trên đất đai này của Chúa ngăn cản họ được.
Garrett và Amelia đang di chuyển vội vã, không buồn tìm cách xóa dấu vết. Bọn họ đi dọc theo một lối mòn tiếp giáp khu vực đầm lầy. Mặt đất mềm và dấu chân bọn họ in rõ ràng. Lucy nhớ nhận xét mà Amelia nói với Rhyme về hiện trường vụ án tại Bến tàu kênh Nước đen khi nữ cảnh sát tóc đỏ chăm chú nhìn những dấu chân để lại đấy: Trọng lượng của Billy Stail dồn vào các ngón chân, nghĩa là cậu ta đã chạy về phía Garrett cứu Mary Beth. Lucy bây giờ cũng nhận thấy điều này ở dấu chân hai kẻ bị truy đuổi. Bọn họ đang chạy hết tốc lực.
Bởi vậy mà Lucy bảo hai người đồng nghiệp: “Chúng ta chạy thôi”. Và bất chấp nóng nực, kiệt sức, họ bắt đầu chạy.
Họ chạy được một dặm cho tới lúc mặt đất trở nên khô ráo hơn và họ chẳng còn nhìn thấy được các dấu chân nữa. Rồi dấu vết kết thúc ở một cánh đồng cỏ rộng, họ không biết con mồi của họ đã đi đằng nào.
“Mẹ kiếp”, Lucy lẩm bẩm, hổn hển thở và tức điên lên vì mất dấu vết. “Mẹ kiếp!”.
Họ đi xung quanh bãi cỏ, xem xét từng gang tay một nhưng không thể phát hiện được lối mòn hay manh mối nào chỉ ra hướng Garrett và Amelia Sachs đã đi.
“Chúng ta làm gì đây?”, Ned hỏi.
“Gọi điện về và chờ đợi”, Lucy lẩm bẩm. Cô dựa người vào một cái cây, bắt lấy chai nước Trey ném cho, uống cạn.
Cô nhớ lại:
Jesse Corn, rụt rè khoe khẩu súng màu bạc sáng lấp lánh anh dự định dùng tham gia các cuộc thi đấu của Hiệp hội Súng trường Quốc gia. Jesse Corn, đưa cha mẹ anh đến nhà thờ giáo phái Baptist ở phố Locust.
Các hình ảnh cứ quay cuồng trong tâm trí Lucy. Chúng khiến cô đau đớn và khiến cơn giận dữ của cô thêm sôi sục. Nhưng Lucy không cố gắng xua đuổi chúng, cô không muốn cơn giận dữ của cô nguôi ngoai đi khi cô tìm thấy Amelia Sachs.
Kêu két một tiếng, cánh cửa ngôi nhà gỗ hé mở.
“Mary Beth”, Tom uốn éo gọi. “Cô em ra đây nào, ra đây vui vẻ nào.”
Gã và nhà truyền giáo thì thào với nhau. Rồi Tom lại nói: “Nào, nào, cưng ơi. Đừng sợ. Bọn anh không làm cưng đau đâu. Hôm qua bọn anh chỉ đùa tí thôi mà”.
Mary Beth đứng thẳng người, áp sát vào bức tường, phía sau cánh cửa. Không hé răng. Cầm chặt cây chùy bằng cả hai tay.
Cánh cửa mở ra rộng hơn, những chiếc bản lề lại kêu ken két. Một cái bóng hắt xuống sàn. Tom bước vào, vẻ thận trọng.
“Nó ở đâu?”, nhà truyền giáo thì thào hỏi từ ngoài hàng hiên.
“Có một cái hầm chứa”, Tom nói. “Tao đánh cuộc là nó ở dưới ấy.”
“Ờ, đưa nó lên và biến thôi. Tao không thích chỗ này.”
Tom bước thêm một bước vào. Gã cầm con dao dài lưỡi mỏng dính.
Mary Beth biết về triết lý chiến tranh của người Anh điêng và một trong số các nguyên tắc là nếu việc hòa đàm thất bại và cuộc chiến tranh là không thể tránh khỏi, người ta sẽ không bông lơn hay đe dọa mà người ta sẽ tấn công với tất cả sức lực của mình. Điểm mấu chốt của trận đánh không là nói để kẻ thù chịu khuất phục hay giải thích hay chửi rủa, mà điểm mấu chốt là tiêu diệt.
Và bởi vậy cô bình tĩnh từ phía sau cánh cửa bước ra, thét to như một linh hồn Manitou của người Anh điêng và vung cây chùy lên bằng cả hai tay trong khi Tom xoay phắt lại, mắt trợn tròn kinh hoàng. Nhà truyền giáo kêu lên: “Cẩn thận!”.
Tom không có cơ hội. Cây chùy nện mạnh vào phía trước tai gã, làm hàm gã vỡ toác, và bổ xuống đến nửa cổ họng. Gã buông con dao, ôm chặt lấy cổ họng, khuỵu gối, tắc thở. Gã bò giật lùi ra ngoài.
“Giúp…giúp tao”, Tom hổn hển nói.
Nhưng không có sự giúp đỡ nào – nhà truyền giáo chỉ cúi xuống, túm cổ áo Tom ra khỏi hàng hiên, để mặc gã ngã vật ra đất, ôm bộ mặt vỡ toác, trong lúc Mary Beth quan sát qua cửa sổ. “Đồ ngu.” Nhà truyền giáo lẩm bẩm với gã đồng đảng, rồi rút súng từ túi quần sau. Mary Beth đẩy cho cánh cửa đóng sập lại, trở về chỗ nấp, lau hai bàn tay ướt mồ hôi, nắm chặt cây chùy hơn. Cô nghe thấy tiếng lên đạn.
“Mary Beth, tao có súng đây và mày chắc đã hiểu rằng trong hoàn cảnh này tao không ngần ngại gì mà không sử dụng nó. Hãy ra đi. Nếu mày không ra, tao sẽ bắn và có thể bắn trúng mày đấy.”
Mary Beth khom mình dựa người vào bức tường phía sau cánh cửa, chờ đợi tiếng súng nổ.
Nhưng nhà truyền giáo không bắn. Đó chỉ là trò đánh lừa. Gã đá mạnh cánh cửa và nó đập vào người Mary Beth, làm cô choáng váng mất một lát, ngã lăn quay. Nhưng khi gã bắt đầu bước vào, cô đá cho cánh cửa đóng lại cũng mạnh chẳng kém. Gã chẳng hề ngờ đến bất cứ sự phản kháng nào và phiến gỗ nặng trịch đập vào vai gã, khiến gã loạng choạng. Mary Beth bước về phía gã, vung cây chùy giáng vào mục tiêu duy nhất trên cơ thể gã mà cô giáng tới được – khuỷu tay. Tuy nhiên, gã thụp xuống đúng lúc hòn đá sắp giáng vào gã và cô bị trượt. Đà của cú vung mạnh khiến cây chùy tuột khỏi hai bàn tay ướt mồ hôi của cô, lướt dọc theo sàn nhà.
Không có thời gian để lấy lại. Chạy thôi! Mary Beth nhảy phốc qua nhà truyền giáo trước khi gã kịp xoay người nhả đạn, và cô guồng chân chạy ra ngoài.
Thế là xong!
Thế là cuối cùng cũng thoát khỏi cái chốn khốn kiếp này!
Mary Beth chạy về phía tay trái, quay lại lối mòn mà kẻ bắt cóc đã đưa cô đi qua cách đây hay ngày, cái lối mòn tiếp giáp với một cái vũng Carolina lớn. Đến góc ngôi nhà gỗ, cô rẽ, nhằm hướng cái vũng.
Và lao thẳng vào vòng tay của Garrett Hanlon.
“Không!”, Mary Beth kêu lên. “Không!”
Gã trai chiếu ánh mắt tức giận. Gã cầm một khẩu súng. “Chị ra ngoài bằng cách nào? Bằng cách nào?” Gã tóm chặt cổ tay Mary Beth.
“Để cho tao đi!” Cô cố gắng rút tay, nhưng nắm tay Garrett cứng như thép.
Đi cùng Garrett là một phụ nữ nét mặt nghiêm trang, xinh đẹp, với mái tóc đỏ buông dài. Cũng giống Garrett, quần áo chị ta trông hết sức bẩn thỉu. Người phụ nữ câm lặng, ánh mắt mờ đục. Xem chừng chị ta không hề ngạc nhiên trước sự xuất hiện đột ngột của cô gái. Chị ta trông như đờ đẫn vì thuốc.
“Mẹ kiếp.” Giọng nhà truyền giáo cất lên. “Đồ chó cái chết giẫm!” Gã rẽ ở góc ngôi nhà và thấy Garrett đang chĩa súng vào mặt gã. Gã trai thét: “Mày là ai? Mày làm gì ở nhà tao? Mày làm gì Mary Beth?”.
“Nó tấn công chúng tao! Hãy nhìn bạn tao xem. Hãy nhìn…”
“Vứt cái kia đi”, Garrett gầm lên, hất đầu chỉ khẩu súng trong tay nhà truyền giáo. “Vứt nó đi, nếu không tao sẽ giết mày! Tao sẽ giết. Tao sẽ bắn bay cái sọ khốn kiếp của mày!”
Nhà truyền giáo nhìn bộ mặt và khẩu súng của gã trai. Garrett lên đạn. “Lạy Chúa…” Nhà truyền giáo thả khẩu súng của gã xuống cỏ.
“Bây giờ thì hãy cút khỏi đây! Cút.”
Nhà truyền giáo quay đầu, rồi đỡ Tom đứng lên, hai gã lảo đảo đi về phía rừng.
Garrett bước về phía cửa trước của ngôi nhà gỗ, kéo theo Mary Beth. “Vào nhà! Chúng ta phải vào nhà. Bọn họ đang đuổi theo chúng ta. Chúng ta không thể để bọn họ trông thấy. Chúng ta sẽ trốn dưới tầng hầm. Hãy xem bọn chúng đã làm gì với các ổ khóa! Bọn chúng đã phá vỡ cánh cửa của tôi!”
“Không, Garrett!”, Mary Beth nói bằng giọng khản đặc. “Tôi sẽ không quay vào đó đâu.”
Nhưng Garrett không nói gì, cứ thế kéo cô vào. Người phụ nữ tóc đỏ câm lặng loạng choạng bước vào. Garrett đẩy cho cánh cửa đóng lại, nhìn phiến gỗ vỡ toác, các ổ khóa long ra, vẻ mặt sững sờ. “Không!”, gã kêu lên, trông thấy những mảnh thủy tinh trên sàn – dấu vết của chiếc lọ đựng con bọ cánh cứng có hình dáng khủng long.
Mary Beth, hoảng hốt thấy có vẻ như việc khiến gã trai giận dữ nhất chính là việc một con bọ của gã đã trốn thoát, bước tới giáng một cái tát vào bộ mặt gã. Gã chợp mắt ngạc nhiên, lảo đảo lùi lại. “Đồ ngu!”, cô thét. “Bọn chúng suýt giết chết tao.”
Gã trai bối rối. “Tôi xin lỗi!” Giọng gã lạc đi. “Tôi không biết bọn chúng. Tôi tưởng không có ai xung quanh đây. Tôi không định bỏ chị một mình lâu vậy. Tôi đã bị bắt.”
Garrett đẩy những mảnh gỗ vụn vào dưới cánh cửa để chèn cho nó không mở ra.
“Bị bắt?”, Mary Beth hỏi. “Vậy cậu đang làm gì ở đây?”
Rốt cuộc thì người phụ nữ tóc đỏ cũng lên tiếng. Bằng giọng lẩm bẩm, chị ta nói: “Tôi đã cứu cậu ấy ra khỏi nhà giam. Để chúng tôi có thể tìm thấy cô và đưa cô trở về. Và cô sẽ có thể xác nhận chuyện gã đàn ông mặc quần yếm mà cậu ấy kể”.
“Gã đàn ông nào?”, Mary Beth bối rối hỏi.
“Tại Bến tàu kênh Nước đen. Gã đàn ông mặc chiếc quần yếm màu vàng, kẻ đã giết Billy Stail.”
“Nhưng…”, Mary Beth lắc đầu. “Chính Garrett đã giết Billy. Hắn đập cậu ta bằng một cái xẻng. Tôi trông thấy mà. Sự việc xảy ra ngay trước mắt tôi. Rồi hắn bắt cóc tôi.”
Mary Beth chưa từng trông thấy một vẻ mặt như thế ở bất cứ ai khác. Hoàn toàn choáng váng, sững sờ. Người phụ nữ tóc đỏ vừa quay về phía Garrett thì có cái gì đó đập vào mắt chị ta: những dãy trái cây và rau đóng hộp hiệu Farmer John. Chị ta chậm chạp bước tới chỗ chiếc bàn, y như trong cơn mộng du và cầm một hộp lên. Nhìn chằm chằm hình ảnh in trên nhãn hộp – ông chủ trang trại tóc vàng tươi cười mặc chiếc quần yếm màu nâu vàng và sơ mi trắng.
“Cậu đã bịa đặt?”, người phụ nữ thì thào bảo Garrett, giơ cái hộp lên. “Không có gã đàn ông nào. Cậu đã nói dối tôi.”
Garrett bước tới, nhanh như một con châu chấu, rút đôi còng tay ra khỏi thắng lưng người phụ nữ tóc đỏ. Gã bập còng vào cổ tay chị ta.
“Tôi xin lỗi, Amelia”, gã nói. “Nhưng nếu tôi kể cho cô nghe sự thật, cô sẽ chẳng đời nào cứu tôi ra. Đó là cách duy nhất. Tôi phải quay lại đây. Tôi phải quay lại với Mary Beth.”
Chú Thích:

[37] Nguyên văn là Wheel of fortune.”

Chương trước Chương sau