Bí ẩn vụ song sinh - Chương 11

Bí ẩn vụ song sinh - Chương 11

Bí ẩn vụ song sinh
Chương 11

Ngày đăng
Tổng cộng 17 hồi
Đánh giá 8.9/10 với 20082 lượt xem

Buổiổi xử sơ khởi vụ án của Nhân Dân, thuộc tiểu bang California buộc tội Carter Gilman được tiến hành như các vụ án bình thường khác.
Tuy nhiên, các giới chức kỳ cựu của tòa án đã để ý tới sự thận trọng hơi khác thường của Phó Biện lý Eduardo Marcus Deering.
Deering đã tham khảo với các cộng sự và lần này thì bố trí vụ án một cách chặc chẽ khiến Perry Mason không thể tìm ra chỗ hở.
Công tố gọi nhân chứng đầu tiên là Sĩ quan Cảnh sát đã phát hiện ra xác chết của Vera Martel.
Vị Sĩ quan tả lại vết bánh xe chứng tỏ chiếc xe đã chệch ra khỏi đường. Ông ta tiếp tục điều tra hiện trường và tìm thấy xác chết nằm sau tay lái trong chiếc xe bị lật. Ông ta khai rằng, hộp số tự động của chiếc xe đã được gài ở vị trí đang chạy, và theo nhận xét của ông ta với tư cách là một chuyên viên, chiếc xe đó đã từ từ lăn bánh chạy xuống vực.
Các vết bánh xe không phải là vết trượt khi xe quẹo và mất tay lái. Bên lề đường là phần đất hằn vết bánh xe cho thấy chiếc xe phóng ra hầu như thẳng góc với khúc cua và rơi xuống vực. Điều này chứng tỏ là chiếc xe đã bị đẩy xuống vực.
Ngoài ra, các viên đá bên lề bị bánh xe đè văng ra cho thấy tốc độ của xe rất chậm vì các viên đá đó chỉ di chuyển một đoạn rất ngắn.
Viên Sĩ quan đưa ra các bức hình của chiếc xe, của xác chết và của các viên đá bị rời chỗ.
Mason chăm chú nghe lời khai của nhân chứng, nhưng khi được mời chất vấn, vị Luật sư chỉ mĩm cười và nói:
- Thưa quý tòa, không có câu hỏi.
Chánh án Boris Alvord mời nhân chứng xuống và nhìn Perry Mason với vẻ mặt thắc mắc.
- Tôi xin phép được hỏi bên bị cáo có ý định trình bày gì trước tòa không? Vị Chánh án hỏi.
- Thưa quý tòa, chúng tôi chưa rõ.
- Thế bên bị cáo có ý định chống lại lời buộc tội của bên công tố không?
- Thưa quý tòa, có ạ. Chúng tôi sẽ chống lại.
- Rất tốt. Chánh án Alvord nói với công tố yêu cầu gọi nhân chứng kế tiếp.
Nhân chứng kế tiếp là chuyên viên giảo nghiệm trình bày các vết nội thương và các xương bị gãy.
- Ông có thể cho biết ý kiến của ông về nguyên nhân gây nên các chết không? Deering hỏi.
Chánh án Alvord liếc nhìn Masson chờ đợi sự phản đối.
Mason vẫn ngồi im không nói.
- Theo ý kiến của tôi, Chuyên viên Giảo nghiệm nói, cái chết là do bị nghẹt thở. Các xương gãy và các vết nội thương đã xảy ra sau cái chết khoản hai tiếng đồng hồ.
- Xin cho biết giờ phỏng định của cái chết? Deering yêu cầu.
- Tôi có thể nói, cái chết đã xảy ra từ bảy giờ ba mươi đến mười một giờ ba mươi sáng ngày hôm trước của ngày khám phá ra xác chết.
- Xin mời chất vấn. Deering nói với Perry Mason.
- Không có chất vấn. Mason đáp.
Viên phụ tá giảo nghiệm được gọi lên bục nhân chứng. Ông ta xác nhận tài sản cá nhân trong ví của Vera Martel. Chiếc ví được lấy từ chiếc xe xảy ra tai nạn.
- Xin đặc biệt chú ý đến xâu chìa khóa có nhiều chìa này, Deering nói. Ông có đánh dấu nhận dạng xâu chìa khóa này không?
- Thưa có.
- Có phải xâu chìa khóa này lấy từ trong xe của Vera Martel không?
- Đúng vậy.
- Xin mời chất vấn. Deering nói với Perry Mason.
Mason tiếp tục lắc đầu nói:
- Không có chất vấn.
- Xin mời nhân chứng Jonathan Blair, Deering nói.
Jonathan Blair tuyên thệ với tư cách là một chuyên viên kỹ thuật điều tra tội phạm của Văn phòng Cảnh sát trưởng.
- Ông cho biết có quan sát qua kính hiển vi các quần áo và xác chết của Vera Martel không? Deering hỏi.
- Thưa có.
- Xin xác định một cách cụ thể, ông có thấy những vật thể khác thường trên đó không?
- Tôi có tìm thấy những mạt cưa dính vào váy, vào phía trên đùi của một chiếc vớ và trong cả hai chiếc giày.
- Ông có thể trình bày rõ về các mạt cưa này không?
- Vâng, Blair nói. Mạt cưa này do nhiều loại gỗ quý khác nhau. Trong đó có gỗ lát, gỗ hương, một loại cẩm lai quý, gỗ dầu và một loại cẩm lai đã được nhuộm đỏ thẫm.
- Chất nhuộm này là vẹc ni hay dầu? Deering hỏi.
- Không phải hai thứ ấy. Đây là một loại chất nhuộm ăn sâu vào gỗ.
- Thế ông có theo dõi nguồn gốc của loại gỗ đặc biệt này không?
- Thưa có. Tôi được cung cấp mẫu gỗ đã được xử lý nhuộm giống hệt như vậy do chủ hãng gỗ tên là Carlos Barbara. Tôi đã lấy thử mẫu mạc cưa này và phân tích quang phổ cho thấy là gỗ và chất nhuộm này giống hệt như mẫu trên xác nạn nhân.
- Mời chất vấn. Deering nói.
Mason lắc đầu nói:
- Thưa quý tòa, không có câu hỏi chất vấn.
Deering nói:
- Xin mời Carlos Barbara.
Barbara khai rằng ông ta buôn bán loại gỗ quý để là đồ mớp. Ông nói rằng ông mới phát minh ra một phương cách nhuộm hóa học có thể sử dụng để nhuộm một số gỗ cẩm lai. Phương cách này ông nói là được giữ bí mật. Gỗ được xử lý bằng những phương pháp đặc biệt trong một khoảng thời gian ân định và chất nhuộm sẽ được đưa vào dưới áp suất. Đây là phương pháp riêng, chưa có hãng nào bắt chước được và ông đã thực hiện nó trên thương trường cách đây chưa đầy ba tháng.
Deering hỏi ông ta rằng, trên sổ sách của ông ta có ghi bán loại gỗ ấy cho ai không và Barbara nói rằng ông ta không bán loại gỗ ấy cho ai cả. Ông chỉ đưa cho ba người loại mẫu gỗ đó để thí nghiệm mà thôi. Ba người này là ba khách hàng thân thuộc.
- Có phải bị cáo là một trong ba khách hàng đó không? Deering hỏi.
- Đúng vậy. Tôi có đưa cho ông Gilman một mẫu.
Deering nói:
- Tôi sẽ đưa ông xem một miếng gỗ và hỏi ông có phải là miếng gỗ ông đã đưa cho ông Gilman không?
- Vâng, đó là một phần của miếng gỗ ấy. Miếng gỗ tôi đưa cho ông ta đã được cưa làm hai và đây là một phần của nó.
- Tôi xin phép được đánh dấu miếng gỗ này làm bằng chứng, Deering nói.
- Tôi không phản đối, Mason nói. Thực ra, nếu quý vị xác định rằng mảnh gỗ đó đã được tìm thấy trong xưởng mộc của ông Gilman thì tôi cũng sẵn sàng đề nghị nó làm bằng chứng trong vụ án này.
- Vâng. Tôi xác định như vậy. Deering nói, cung cách lộ vẻ ngạc nhiên, thắc mắc.
- Tôi đề nghị nó là bằng chứng. Mason nói.
Chánh án Alvord nhìn Mason định nói điều gì nhưng lại thôi, và tuyên bố:
- Tốt lắm. Miếng gỗ được ghi nhận làm bằng chứng theo đề nghị. Tiến hành và tiếp tục.
- Thưa quý tòa, tôi không còn hỏi nữa.
- Không có chất vấn. Mason nói.
- Xin mời Warren Lawton, Deering nói.
Lawton tuyên thệ với tư cách là chuyên viên kỹ thuật của Nha Cảnh sát thành phố Los Angeles.
- Tôi xin hỏi, có phải ông nghiên cứu mạt cưa này nằm trên váy, trên giày cũng như ở vớ của nạn nhân phải không?
- Vâng. Tôi có mặt lúc dùng máy hút bụi, hút các mạt cưa nằm trên người của bà Vera Martel.
- Các mạt cưa này có cùng loại với bằng chứng được ghi nhận là bằng chứng công tố G không?
- Nó cùng loại.
- Các ông tìm thấy nó ở đâu?
- Ở chiếc giày bên phải gần gót chân, phía trên của chiếc vớ phải và trên váy của cả hai bên phải lẫn trái.
- Ông cho biết có làm khám nghiệm chiếc xe hơi đăng ký dưới tên Carter Gilman không?
- Thưa có.
- Ông có thấy bất kỳ điều gì có ý nghĩa trong cốp xe đó không?
- Tôi có thấy.
- Đó là gì?
- Những mạt cưa cùng loại gỗ với bằng chứng G. Một số sợi tơ theo tôi nghĩ, do từ váy của Vera Martel khi bà ta chết, và rất nhiều sợi tóc hoàn toàn cùng loại với tóc trên đầu của nạn nhân.
- Ngoài ra, ông còn tìm thấy gì có ý nghĩa trong xe đó nữa không?
- Thưa có.
- Đó là gì?
- Một cục đất sét xanh.
- Ông có thể nói rõ hơn về cục đất sét này.
- Nó là một loại đất sét dẻo có màu xanh thẫm và giữ mãi độ dẻo, để lâu nó vẫn không cứng như những loại đất sét khác.
- Xin mời chất vấn. Deering nói.
Mason đứng dậy đối diện với nhân chứng.
- Có phải ông đã tìm thấy loại mạt cưa này trong xưởng mộc của bị cáo không?
- Vâng.
- Loại mạt cưa đó dính vào quần áo người ta à?
- Vâng, thông thường có một số dính vào quần áo.
- Nếu Vera Martel đã có mặt trong xưởng mộc và nằm trên sàn, ông có nghĩ là một số mạt cưa sẽ dính vào quần áo bà ta không?
- Tôi nghĩ chắc chắn là như thế.
- Và nếu xác bà ta được đặt trong xe hơi, ông có nghĩ là một số mạt cưa sẽ rớt lại không?
- Chắc chắn là như vậy.
- Thế có phải quần áo của Vera Martel là loại đặc biệt nên mới dính loại mạt cưa không?
- Không.
- Thế mạt cưa đó có thể dính vào quần áo của bị cáo không?
- Có chứ.
- Như vậy, nếu bị cáo làm việc trong xưởng và mặt áo dài tay thì mạt cưa có thể dính vào tay áo của bị cáo không?
- Điều đó là có thể.
- Và nếu trên tay áo của bị cáo của mạt cưa thì khi mở cốp xe để cất hoặc lấy đồ, các mạt cưa này sẽ rớt vào trong cốp xe, có phải thế không?
- Điều đó là có thể.
- Cảm ơn ông, Mason nói. Không còn hỏi nữa.
- Xin mời Maurice Fellows, Deering nói với dáng điệu của một người đang nắm hết con chủ bài.
Fellows là một ông già có đôi lông mày rậm, đầy ria quanh miệng, đang đứng trước bục nhân chứng khai là thợ khóa.
- Ông có quen biết bị cáo không? Deering hỏi.
- Tôi có gặp ông ta.
- Ông gặp khi nào?
- Chiều ngày mười ba.
- Có phải là chiều hôm Thứ Ba vừa qua không?
- Vâng, đúng vậy.
- Ông có quan hệ công việc gì với ông ta không?
- Vâng có.
- Đại khái đó là việc gì?
Fellows nói:
- Bị cáo đưa cho tôi một cục đất sét, trên ấy có vết của năm chiếc chìa khóa. Ông ta muốn tôi làm năm chiếc chìa theo khuôn đó. Tôi nói với ông ta đây là một công việc khó khăn chứ không phải bình thường và khá tốn kém. Tôi sẽ làm một mẫu chính, và...
- Và ông ta nói sao?
- Ông ta bảo cứ việc làm, không sợ tốn kém, làm xong càng sớm càng tốt.
- Ông làm sao?
- Tôi đã làm xong các chìa khóa ấy.
- Cách thức ông làm ra sao?
- Đầu tiên, tôi làm mẫu chính, sau đó thì làm chìa giống hệt như vậy.
- Thế ông có giữ lại mẫu chính không?
- Thưa có.
- Ông có đem nó theo không?
- Thưa có.
- Tôi xin được phép đưa nó làm bằng chứng, Deering nói.
- Tôi không phản đối, Mason nói.
- Ông Fellows, bây giờ tôi đưa ông xem một xâu chìa khóa tìm thấy trong ví của nạn nhân Vera Martel và hỏi ông với tư cách một chuyên viên chìa khóa, có chiếc chìa nào giống hệt với chiếc chìa mẫu mà ông đã làm không?
- Tôi thấy có giống.
- Tất cả à?
- Vâng, tất cả.
- Xin mời chất vấn, Deering nói với vẻ đầy tự tin ở sự thắng lợi.
- Hiện giờ không có câu hỏi, Mason nói.
Chánh án Alvord nhìn đồng hồ và nói:
- Thưa quý vị, bây giờ chỉ còn năm phút nữa là tới giờ trưa. Tôi nghĩ là chúng ta nên tạm nghĩ trước khi gọi các nhân chứng khác. Bên công tố còn gọi nhân chứng nào nữa không?
- Chúng tôi còn vài người, Deering nói.
- Thôi được. Tòa sẽ tạm nghĩ đến một giờ mười chiều nay. Bị cáo vẫn còn bị giam giữ.
Chánh án Alvord rời ghế ngồi.
Mason đứng dậy gật đầu với viên Sĩ quan và nói:
- Ông có thể đưa ông Gilman trở lại đây vào lúc một giờ hai mươi được không? Tôi muốn nói chuyện với ông ta trước khi tòa họp.
- Tôi sẽ đưa ông ta tới. Viên Sĩ quan nói.
- Được rồi, Mason nói với Gilman. Hãy suy nghĩ rồi cho tôi biết sự thật.
Mason cầm cặp táp, gật đầu với Della Street, Paul Drake bước tới nhập bọn và cả ba người rời khỏi phòng xử.
- Ăn trưa chứ? Drake hỏi.
- Đại khái thôi, Mason nói.
- Cái vụ chìa khóa đó như chiếc thòng lọng xiết vào cổ thân chủ anh. Paul Drake nói một cách buồn rầu.
Mason không nói gì cả.
- Tuy nhiên, họ đã đưa yếu tố ấy ra tại phiên tòa xử sơ khởi này, chứng tỏ là họ rất ngán anh. Bình thường họ phải để dành lại cho phiên xử chính.
- Ngoại trừ trường hợp, Mason nói, họ đưa ra bây giờ để có thể cần đến về sau trong trường hợp không tìm thấy ông thợ chìa khóa này.
Drake nói:
- Tôi nghĩ là lần này họ đã cột chặt được anh, Perry ạ. Tôi không hiểu tại sao ông Biện lý Hamilton Burger chưa đích thân ra tay.
- Có lẽ vì đó là một vụ quá dễ dàng, Mason nói. Một biện lý không nên đích thân đến tòa trong một vụ án quá dễ dàng như thế này.
- Tôi cá với anh thế nào chiều nay ông ta cũng đến để đích thân dẫn dắt vụ án, Paul Drake nói. Ông ta cần có nhu cầu chiến thắng cá nhân để thỏa mãn lòng vị kỷ mà.
Mason nói:
- Tôi không nghĩ rằng thân chủ tôi là kẻ giết người, và đến giờ...
- Tôi cá với anh, ông ta đã làm việc đó, Drake nói. Ông ta đã làm vì muốn che chờ cho người mà ông ta thương yêu.
Họ dắt nhau đến tiệm ăn quen thuộc gần tòa án, ở đây họ đã đặt trước bàn ăn trong phòng riêng dành cho những ngày có phiên tòa của Perry Mason.
Đang ăn, người bồi đem điện thoại đến và nói:
- Có điện thoại của ông Drake.
Anh ta cắm phích nối đường dây. Drake cầm ống nghe nói:
- Vâng, tôi Paul Drake nghe đây... Ai?... Được rồi, cho gặp cô ta.
Drake nói:
- Vâng. Chờ một lúc sau nói tiếp. Được rồi, đành vậy thôi. Cứ tiếp tục công việc. Rất may là biết được tin.
Drake cúp máy, thở dài nói:
- Tôi rất buồn phải báo tin cho anh, Perry.
- Chả nhẽ còn tồi tệ thêm nữa sao? Mason hỏi.
- Cảnh sát đã giữ Hartley Elliott. Họ giữ anh ta với tư cách là nhân chứng chủ yếu. Họ đã giữ anh ta hơn sáu tiếng đồng hồ nhưng không tiết lộ. Họ dự định sẽ đưa anh ta ra tòa vào chiều nay làm một nhân chứng bất ngờ. Họ muốn anh bị cứng họng vì cuộc chất vấn của anh sẽ không đi đến đâu nếu họ đưa ra nhân chứng bất ngờ.
- Họ cũng có thể tạo cơ hội cho Elliott vắng mặt tại tòa nếu anh ta muốn và rồi họ sẽ đọc lời khai của anh ta trước tòa, điều đó còn chết người hơn nữa.
- Họ đã cẩn thận nghiên cứu, tiến hành có tích cách chiến lược. Họ đã biết nơi lánh mặt của Elliott tại một ngôi nhà trọ dưới cái tên giả và đã canh chừng anh ta mấy ngày qua. Sáng nay, họ mới làm một cú bất ngờ là bắt anh ta và bước trước anh một bước đấy.
- Chắc anh biết điều ấy mang ý nghĩa gì rồi. Hamilton Burger sẽ đích thân tới tòa vào chiều nay và sẵn sàng giật mạnh tấm thảm dưới chân anh, và khi anh còn đang nằm giãy đành đạch, họ sẽ làm cho Elliott khai rằng anh ta đã nhìn thấy Glamis từ trong xưởng mộc chạy ra. Logic của vụ án này là Gilman đang ngồi tại bàn ăn sáng, cũng nhìn thấy cô ta vừa chạy ra, ông ta bèn xuống xem và gặp Vera Martel, rồi xảy ra cuộc xô xát, hoặc là tìm thấy Glamis vừa làm chuyện đó và ông ta đã che chở cho Glamis.
- Thế rồi họ sẽ đưa lên tòa trên buộc tội Glamis đồng lõa với Carter Gilman và đẩy anh vào một tình thế hết lối thoát.
Mason nói:
- Glamis có nói với tôi rằng cô ta vẫn nằm trên giường ngủ cho tới khi nghe thấy Muriell lục đục trên lầu.
- Ừ hứ, Drake nói. Đó là điều cô ta nói với anh, nhưng khi thân chủ của anh nói cho anh biết sự thật thì anh đã thấy con cọp đứng sau lưng.
Mason đẩy mạnh chiếc ghế đứng dậy khỏi bàn.
- Thôi được, ông nói. Chúng ta hãy cứ đến pháp trường vào xem đao phủ Hamilton Burger cố giở trò gì.

Chương trước Chương sau